Những điểm mới về chính sách trợ giúp xã hội

(ĐHVO).Vừa qua, ngày 01/07/2021, Nghị định số 20/2021/NĐ-CP của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội bắtt đầu có hiệu lực. Theo đó, nội dung Nghị định này quy định về chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên tại cộng đồng; nhận chăm sóc, nuôi dưỡng tại cộng đồng; trợ giúp xã hội khẩn cấp và chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội.

So với Nghị định 136/2013/NĐ-CP thì Nghị định 20/2021/NĐ-CP đã có những điểm mới khá tích cực và theo chiều hướng có lợi hơn cho các đối tượng cần được trợ giúp. Cụ thể:

Thứ nhất: Mở rộng phạm vi những đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng

Tại Điều 5, Nghị định định 20/2021/NĐ-CP quy định về các đối tượng bảo trợ xã hội hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng gồm:

– Trẻ em dưới 16 tuổi không có nguồn nuôi dưỡng thuộc một trong các trường hợp sau đây:

+ Bị bỏ rơi chưa có người nhận làm con nuôi;

+ Mồ côi cả cha và mẹ;

+ Mồ côi cha hoặc mẹ và người còn lại bị tuyên bố mất tích theo quy định của pháp luật;

+ Mồ côi cha hoặc mẹ và người còn lại đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội, nhà xã hội;

+ Mồ côi cha hoặc mẹ và người còn lại đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc;

+ Cả cha và mẹ bị tuyên bố mất tích theo quy định của pháp luật;

+ Cả cha và mẹ đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội, nhà xã hội;

+ Cả cha và mẹ đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc;

+ Cha hoặc mẹ bị tuyên bố mất tích theo quy định của pháp luật và người còn lại đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội, nhà xã hội;

+ Cha hoặc mẹ bị tuyên bố mất tích theo quy định của pháp luật và người còn lại đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc;

+ Cha hoặc mẹ đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội và người còn lại đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc.

– Những người này mà đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng mà đủ 16 tuổi nhưng đang học văn hóa, học nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học văn bằng thứ nhất thì tiếp tục được hưởng chính sách trợ giúp xã hội cho đến khi kết thúc học, nhưng tối đa không quá 22 tuổi.

– Trẻ em nhiễm HIV/AIDS thuộc hộ nghèo.

-. Người thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo chưa có chồng hoặc chưa có vợ; đã có chồng hoặc vợ nhưng đã chết hoặc mất tích theo quy định của pháp luật và đang nuôi con dưới 16 tuổi hoặc đang nuôi con từ 16 đến 22 tuổi và người con đó đang học văn hóa, học nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học văn bằng thứ nhất (sau đây gọi chung là người đơn thân nghèo đang nuôi con).

– Người cao tuổi thuộc một trong các trường hợp quy định sau đây:

+ Người cao tuổi thuộc diện hộ nghèo, không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng hoặc có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng nhưng người này đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng;

+ Người cao tuổi từ đủ 75 tuổi đến 80 tuổi thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo không thuộc diện quy định ở điểm a khoản này đang sống tại địa bàn các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đặc biệt khó khăn;

+ Người từ đủ 80 tuổi trở lên không thuộc diện quy định tại điểm a khoản 5, Điều 5, Nghị Định 20/2021/NĐ-CP này mà không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng, trợ cấp xã hội hàng tháng;

+ Người cao tuổi thuộc diện hộ nghèo, không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng, không có điều kiện sống ở cộng đồng, đủ điều kiện tiếp nhận vào cơ sở trợ giúp xã hội nhưng có người nhận nuôi dưỡng, chăm sóc tại cộng đồng.

– Người khuyết tật nặng, người khuyết tật đặc biệt nặng theo quy định pháp luật về người khuyết tật.

– Trẻ em dưới 3 tuổi thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo không thuộc đối tượng quy định tại các khoản 1, 3 và 6 Điều 5 Nghị định 20/2021/NĐ-CP đang sống tại địa bàn các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đặc biệt khó khăn.

–  Người nhiễm HIV/AIDS thuộc diện hộ nghèo không có nguồn thu nhập ổn định hàng tháng như tiền lương, tiền công, lương hưu, trợ cấp bảo bảo hiểm xã hội, trợ cấp xã hội hàng tháng.

Theo đó, có 8 nhóm đối tượng bảo trợ xã hội được hưởng trợ cấp hàng tháng, tăng thêm 2 nhóm đối tượng so với Điều 5 Nghị định 136/2013/NĐ-CP.

Ngoài ra, Điểm b, Khoản 5; Khoản 7, Điều 5 Nghị định số 20/2021/NĐ-CP đã bổ sung thêm một số đối tượng đang sống tại địa bàn các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đặc biệt khó khăn bao gồm: Người cao tuổi từ đủ 75 tuổi đến 80 tuổi thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo; Trẻ em dưới 3 tuổi thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo không thuộc đối tượng quy định tại các khoản 1, 3 và 6 Điều 5 Nghị định số 20/2021/NĐ-CP (không thuộc các đối tượng trẻ em không có nguồn nuôi dưỡng; trẻ em nhiễm HIV/AIDS thuộc hộ nghèo; trẻ em dưới 3 tuổi là người khuyết tật nặng, người khuyết tật đặc biệt nặng theo quy định pháp luật về người khuyết tật)

Ngoài ra, Nghị định số 20/2021/NĐ-CP cũng đã tách đối tượng “người nhiễm HIV/AIDS thuộc diện hộ nghèo” ra khỏi nhóm các đối tượng người nhiễm HIV thuộc hộ nghèo (hiện đang được quy định tại khoản 3 Điều 5 Nghị định số 136/2013/NĐ-CP) thành một nhóm đối tượng riêng (tại Khoản 8, Điều 5). Đồng thời, thay đổi điều kiện theo hướng có lợi  khi quy định “người nhiễm HIV/AIDS thuộc diện hộ nghèo” thuộc diện đối tượng bảo trợ xã hội được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng chỉ cần đáp ứng điều kiện “không có nguồn thu nhập ổn định hàng tháng như tiền lương, tiền công, lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp xã hội hàng tháng” mà không còn phải đáp ứng thêm điều kiện “không còn khả năng lao động” như quy định tại khoản 3 Điều 5 Nghị định số 136/2013/NĐ-CP nữa.

Ngoài những đối tượng được quy định tại Điều 5 Nghị định số 20/2021/NĐ-CP, tùy thuộc điều kiện kinh tế – xã hội tại địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định đối tượng khó khăn khác chưa quy định tại Nghị định này được hưởng chính sách trợ giúp xã hội (điểm b khoản 3 Điều 4 Nghị định số 20/2021/NĐ-CP).

Thứ hai: Tăng mức chuẩn trợ giúp xã hội

Mức chuẩn trợ giúp từ ngày 01/07/2021 được tăng lên 90.000 đồng thành 360.000 đồng so với mức 270.000 đồng như cũ. Ngoài ra, tùy vào điều kiện kinh tế của địa phương thì có thể áp dụng mức chuẩn cao hơn đễ trợ giúp cho các hoàn cảnh khó khăn và không được thấp hơn mức 360.000 đồng.

Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)

Thứ ba: Thay đổi hệ số tính mức trợ cấp xã hội

Hệ số tính mức trợ cấp xã hội được quy định cụ thể hơn ngay tại Điều 6 Nghị định 20/2021/NĐ – CP để đảm bảo cho việc thực hiện được thống nhất.

“Điều 6. Mức trợ cấp xã hội hàng tháng

1. Đối tượng quy định tại Điều 5 Nghị định này được trợ cấp xã hội hàng tháng với mức bằng mức chuẩn trợ giúp xã hội quy định tại Điều 4 Nghị định này nhân với hệ số tương ứng quy định như sau:

a) Đối với đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 5 Nghị định này:

– Hệ số 2,5 đối với trường hợp dưới 4 tuổi;

– Hệ số 1,5 đối với trường hợp từ đủ 4 tuổi trở lên.

b) Hệ số 1,5 đối với đối tượng quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị định này.

c) Đối với đối tượng quy định tại khoản 3 Điều 5 Nghị định này:

– Hệ số 2,5 đối với đối tượng dưới 4 tuổi;

– Hệ số 2,0 đối với đối tượng từ đủ 4 tuổi đến dưới 16 tuổi.

d) Đối với đối tượng quy định tại khoản 4 Điều 5 Nghị định này:

Hệ số 1,0 đối với mỗi một con đang nuôi.

đ) Đối với đối tượng quy định tại khoản 5 Điều 5 Nghị định này:

– Hệ số 1,5 đối với đối tượng quy định tại điểm a khoản 5 từ đủ 60 tuổi đến 80 tuổi;

– Hệ số 2,0 đối với đối tượng quy định tại điểm a khoản 5 từ đủ 80 tuổi trở lên;

– Hệ số 1,0 đối với đối tượng quy định tại các điểm b và c khoản 5;

– Hệ số 3,0 đối với đối tượng quy định tại điểm d khoản 5.

e) Đối với đối tượng quy định tại khoản 6 Điều 5 Nghị định này:

– Hệ số 2,0 đối với người khuyết tật đặc biệt nặng;

– Hệ số 2,5 đối với trẻ em khuyết tật đặc biệt nặng hoặc người cao tuổi là người khuyết tật đặc biệt nặng;

– Hệ số 1,5 đối với người khuyết tật nặng;

– Hệ số 2,0 đối với trẻ em khuyết tật nặng hoặc người cao tuổi là người khuyết tật nặng.

g) Hệ số 1,5 đối với đối tượng quy định tại các khoản 7 và 8 Điều 5 Nghị định này.

2. Trường hợp đối tượng thuộc diện hưởng các mức theo các hệ số khác nhau quy định tại khoản 1 Điều này hoặc tại các văn bản khác nhau thì chỉ được hưởng một mức cao nhất. Riêng người đơn thân nghèo đang nuôi con là đối tượng quy định tại các khoản 5, 6 và 8 Điều 5 Nghị định này thì được hưởng cả chế độ đối với đối tượng quy định tại khoản 4 Điều 5 và chế độ đối với đối tượng quy định tại các khoản 5, 6 và 8 Điều 5 Nghị định này.”

Ngoài ra, do có một số thay đổi về đối tượng hưởng trợ cấp nên Nghị định cũng bổ sung thêm mức hưởng trợ cấp cho từng đối tượng đó.

Thứ tư: Quy định thêm trường hợp trợ giúp xã hội khẩn cấp

Nghị định 20/2021/NĐ-CP quy định về 6 hình thức hỗ trợ khẩn cấp gồm:

– Hỗ trợ lương thực và nhu yếu phẩm thiết yếu từ nguồn ngân sách nhà nước

– Hỗ trợ chi phí điều trị người bị thương nặng

– Hỗ trợ chi phí mai táng;

– Hỗ trợ làm nhà ở, sửa chữa nhà ở

– Hỗ trợ khẩn cấp đối với trẻ em khi cha mẹ bị chết, mất tích do thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh hoặc các lý do bất khả kháng khác

– Hỗ trợ tạo việc làm, phát triển sản xuất

Nghị định 20/2021/NĐ-CP có những điểm mới khi quy định:

– Tăng mức hỗ trợ chi phí mai táng từ 20 lên tối thiểu bằng 50 lần mức chuẩn trợ giúp xã hội

– Tăng mức hỗ trợ làm nhà ở, sửa chữa nhà ở

+ Hộ nghèo, hộ cận nghèo, gia đình có hoàn cảnh khó khăn có nhà ở bị đổ, sập, trôi, cháy hoàn toàn do thiên tai, hỏa hoạn hoặc sự kiện bất khả kháng mà không còn nơi ở thì được xem xét hỗ trợ chi phí làm nhà với mức tối thiểu là 40.000.000 đồng/hộ (Mức cũ là tối đa không quá 20.000.000 đồng/hộ)

+ Hộ phải di dời nhà khẩn cấp theo Quyết định của cơ quan có thẩm quyền do nguy cơ sạt lở, lũ, lụt, thiên tai, hỏa hoạn hoặc lý do bất khả kháng thì được xem xét mức hỗ trợ di rời tối thiểu 30.000.000 đồng/hộ (Mức cũ là tối đa không quá 20.000.000 đồng).

+ Hộ nghèo, hộ cận nghèo, gia đình có hoàn cảnh khó khăn có nhà ở hư hỏng nặng  hoàn toàn do thiên tai, hỏa hoạn hoặc sự kiện bất khả kháng mà không ở được thì được xem xét hỗ trợ chi phí làm nhà với mức tối thiểu là 20.000.000 đồng/hộ (Mức cũ là tối đa không quá 15.000.000 đồng/hộ)

– Quy định trường hợp hỗ trợ nhu yếu phẩm thiết yếu đối với các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn do thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh hoặc lý do bất khả kháng khác mà không còn nơi ở và không có khả năng tự bảo đảm các nhu cầu thiết yếu. Theo đói, các đối tượng này được hỗ trợ từ nguồn lực huy động hoặc nguồn dự trữ quốc gia: lều bạt, nước uống, thực phẩm, chăn màn, xoong nồi, chất đốt, xuồng máy và một số mặt hàng thiết yếu.

Thứ năm: Đơn giản hóa thủ tục hành chính

Nghị định 20/2021/NĐ-CP đã loại bỏ bước xét duyệt tại Hội đồng xét duyệt trợ giúp xã hội (cấp xã) thực hiện các thủ tục thực hiện, điều chỉnh, thôi hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng, hỗ trợ kinh phí chăm sóc nuôi dưỡng hàng tháng. Đồng thời, ban hành 19 biểu mẫu nhằm đảm bảo chuẩn hóa giấy tở, thống nhất thực hiện các thủ tục hành chính thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định này.

Dựa trên tình tình xã hội ngày càng gặp nhiều khó khăn khi trải qua trận lũ lịch sử tại miền Trung năm 2020 và đại dịch Covid-19 khiến rất nhiều người rơi vào cảnh “màn trời chiếu đất”, không đủ khả năng duy trì cuộc sống mà nhà nước ta đã có những điều chỉnh khá hợp tình, hợp lý để phần nào hỗ trợ cho người dân, khích lệ người dân cố gắng vượt qua những khó khăn trước mắt và luôn vững tin vì đồng bào ta, nhà nước ta luôn bên cạnh.

Nguyễn Hoa

Để lại bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Scroll to Top