Đảm bảo quyền tiếp cận giáo dục của trẻ khuyết tật

(ĐHVO). “96,7% học sinh khuyết tật thích đi học” – Đây là số liệu thu được từ cuộc khảo sát về “Thực trạng tiếp cận giáo dục của trẻ khuyết tật trong các cơ sở giáo dục” do Hội Bảo trợ người khuyết tật và trẻ mồ côi Việt Nam thực hiện năm 2022. Nhu cầu là vậy, tuy nhiên, để được thực hiện quyền tiếp cận giáo dục, tham gia vào giáo dục hoà nhập, học sinh khuyết tật đang gặp những rào cản nhất định.


Cán bộ Hội Bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi thành phố Hải Phòng thực hiện khảo sát “Thực trạng tiếp cận giáo dục của trẻ khuyết tật tại các cơ sở giáo dục”

Thiếu giáo viên có chuyên môn, điều kiện hỗ trợ còn hạn chế

Thực hiện Luật Người khuyết tật và các văn bản hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong thời gian qua, công tác giáo dục hòa nhập đối với người

khuyết tật đã được quan tâm thực hiện, các chương trình giáo dục hòa nhập các cấp được xây dựng, ban hành, tạo điều kiện cho người khuyết tật, đặc biệt là trẻ em khuyết tật có cơ hội tiếp cận giáo dục. Việt Nam đã hình thành hệ

thống Trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập cấp tỉnh ở trên 20 tỉnh, thành phố, đã có 107 cơ sở giáo dục chuyên biệt và 12 trung tâm giáo dục trẻ em khuyết tật. Các cơ sở này triển khai giáo dục hòa nhập ở tất cả các cấp học phổ thông. Số trẻ khuyết tật được đi học ở Việt Nam đã tăng gấp 10 lần trong 2 thập kỷ qua. Số liệu Điều tra quốc gia về người khuyết tật cũng cho thấy, tỷ lệ đi học đúng tuổi cấp tiểu học của trẻ khuyết tật khoảng 88,7%, trung học phổ thông là 33,6%. Mặc dù Luật Người khuyết tật quy định về giáo dục hòa nhập và xác định đây là mô hình giáo dục chính cho người khuyết tật, tuy nhiên vẫn còn những rào cản nhất định trong thực tế làm ảnh hưởng đến quyền học tập của người khuyết tật.

Theo kết quả khảo sát về “Thực trạng tiếp cận giáo dục của trẻ khuyết tật trong các cơ sở giáo dục” do Hội Bảo trợ người khuyết tật và trẻ mồ côi Việt Nam thực hiện năm 2022, thông tin từ các giáo viên cung cấp cho thấy, trong số học sinh khuyết tật theo học tại các trường tiểu học và trung học cơ sở (THCS), chiếm tỷ lệ cao nhất (37,0%) là khuyết tật trí tuệ, tiếp đến là vận động (20,9%), nghe nói (10,5%), thần kinh (10,3%), nhìn (3,7%), có 17,5% dạng tật khác và một số học sinh đa tật; Có 81,3% học sinh khuyết tật đi học có hồ sơ theo dõi sức khỏe, tình trạng khuyết tật; Có 61,8% giáo viên trả lời các học sinh khuyết tật được sàng lọc trước khi vào học hoặc trong quá trình học tập tại nhà trường. Đối với giáo viên dạy trẻ khuyết tật trong các trường Tiểu học và THCS, dù số năm công tác trong ngành giáo dục trung bình gần 20 năm, trong lĩnh vực giáo dục trẻ khuyết tật trên 5 năm, nhưng có tới gần một nửa (43,9%) số giáo viên được hỏi trả lời “chưa bao giờ tham gia đào tạo, tập huấn về hỗ trợ giáo dục cho trẻ khuyết tật”, 11,5% trả lời ở mức hiếm khi, 37,4% ở mức thỉnh thoảng và chỉ 7,5% thường xuyên được đào tạo, tập huấn.

Kết quả của cuộc khảo sát cho thấy, thực tế hiện nay, các cơ sở giáo dục phổ thông (tiểu học và THCS) có trẻ khuyết tật học hòa nhập đang gặp khó khăn lớn về đội ngũ giáo viên có chuyên môn, kỹ năng dạy trẻ. Trong khi 94,7% số cán bộ quản lý tại các trường tiểu học và THCS cho biết học sinh khuyết tật tại cơ sở của mình đang học ở lớp hòa nhập, 2,4% đang học lớp bán hòa nhập và 3,3% học hình thức khác, thì cũng có tới 95,1% số cán bộ này trả lời rằng nhà trường không có giáo viên thuộc các chuyên ngành này, mà chỉ cử giáo viên, nhân viên tham gia đào tạo, tập huấn về hỗ trợ giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật. Tuy nhiên, tỷ lệ này cũng không nhiều, chỉ có 59,4%.

Điều kiện hỗ trợ cho học sinh khuyết tật của các trường phổ thông còn rất hạn chế, chỉ 42,9% trong tổng 508 cán bộ quản lý được hỏi cho rằng nhà trường có điều kiện về trang thiết bị học tập. Học sinh khuyết tật được hỗ trợ chi phí học tập, học phí, các hoạt động tư vấn, hỗ trợ giáo dục hòa nhập, còn các điều kiện đặc thù như xe lăn, phương tiện hỗ trợ di chuyển, thiết bị nghe nhìn rất thấp, chỉ 2 – 3%. Các hoạt động can thiệp, hỗ trợ học sinh khuyết tật chưa nhiều, chỉ 58,5% số cán bộ trả lời trường mình có tổ chức cho các em, tuy nhiên, chủ yếu do giáo viên, nhân viên của nhà trường tự tổ chức, chỉ có 6,8% là có hợp tác với đơn vị chuyên về can thiệp trẻ khuyết tật, 3,0% do các trung tâm hỗ trợ giáo dục hòa nhập của tỉnh/thành phố thực hiện và 4,4% do các đơn vị khác thực hiện.

Đối với các em học sinh khuyết tật, khi được hỏi về việc có thích đi học không, thì có tới 96,7% học sinh khuyết tật trả lời thích đi học. Trong quá trình học tập tại trường, các em đều nhận được hỗ trợ từ chính bạn bè (74,1%), được tư vấn về học tập (57,7%), được giáo viên hỗ trợ các tiết học cá nhân (47,9%), được giáo viên tư vấn về chăm sóc sức khỏe cá nhân (35,4%), có 15,1% học sinh khuyết tật được tư vấn hướng nghiệp. Tuy nhiên, chỉ 2,6% số học sinh khuyết tật nhận được các hoạt động hỗ trợ, can thiệp phục hồi chức năng của nhân viên, 4,9% nhận được chương trình trị liệu phục hồi chức năng tại trường và chỉ 2,0% trong số các em được hỏi được cung cấp hỗ trợ các phương tiện, thiết bị đi lại, nghe nhìn…

Đối với các cơ sở giáo dục chuyên biệt, trung tâm hỗ trợ giáo dục hòa nhập thuộc khu vực nhà nước và tư nhân hiện còn rất mỏng về số lượng và phân bố chưa đồng đều, chỉ tập trung ở một số khu vực đô thị trong khi nhu cầu giáo dục đặc biệt đối với trẻ khuyết tật ngày càng lớn, số lượng trẻ có nhu cầu giáo dục đặc biệt gia tăng trong bối cảnh đô thị hóa, hiện đại hóa ở nhiều địa phương.

Những khó khăn này sẽ là rào cản đối với nhi trẻ khuyết tật có nhu cầu học tập nhưng không được đến trường hoặc không được học tập ở môi trường phù hợp.

Cần một giải pháp đồng bộ đảm bảo quyền giáo dục của trẻ khuyết tật

Ngày 5/8/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1190/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2021- 2030”, trong đó đặt ra mục tiêu đến năm 2030 có 90% trẻ khuyết tật ở độ tuổi mầm non và phổ thông được tiếp cận giáo dục;70% cán bộ làm công tác trợ giúp người khuyết tật được tập huấn, nâng cao năng lực quản lý, chăm sóc, hỗ trợ người khuyết tật; 40% gia đình có người khuyết tật được tập huấn về kỹ năng, phương pháp chăm sóc phục hồi chức năng cho người khuyết tật….

Những kết quả thực tiễn thu hoạch được từ cuộc khảo sát của Hội Bảo trợ người khuyết tật và trẻ mồ côi Việt Nam cho thấy, để đạt được các mục tiêu của Đề án, cần thiết phải có một giải pháp mang tính đồng bộ của các bộ, ngành liên quan, của các tổ chức xã hội của người khuyết tật và vì người khuyết tật cũng như chính bản thân gia đình người khuyết tật. Trong đó, các cơ quan hoạch định chính sách cần đẩy mạnh việc thực hiện có hiệu quả, thực chất các chính sách hiện có, đưa các chính sách, giải pháp vào thực tế cuộc sống như các giải pháp được nêu trong Đề án 1190 của Chính phủ; Quyết định số 1438/QĐ TTg phê duyệt Đề án hỗ trợ trẻ em khuyết tật tiếp cận các dịch vụ bảo vệ, chăm sóc, giáo dục tại cộng đồng giai đoạn 2018-2025 và các đề án, chương trình hiện có liên quan. Nghiên cứu chỉnh sửa một số văn bản, chính sách hỗ trợ đối với người khuyết tật trong đó có liên quan đến tiếp cận giáo dục của trẻ khuyết tật trong các cơ sở giáo dục và ngoài cộng đồng. Cần bổ sung các chính sách đặc thù đối với công tác giáo dục trẻ khuyết tật trong các trường học và cơ sở giáo dục chuyên biệt thông qua các nguồn hỗ trợ cho đội ngũ giáo viên, học sinh và cơ sở giáo dục. Trong danh sách Hội đồng xác nhận mức độ khuyết tật cần bổ sung đại diện ngành giáo dục, đồng thời, tất cả trường hợp nghi ngờ khuyết tật phải được ghi nhận và sàng lọc để sớm phát hiện và can thiệp cũng như thường xuyên tổ chức khám sàng lọc, khám sức khỏe định kỳ cho học sinh khuyết tật để giúp nắm bắt, hỗ trợ trẻ kịp thời trong học tập.

Nhà nước cần quan tâm phối hợp với ngành giáo dục để thiết kế, xây dựng sách giáo khoa chữ nổi theo chương trình mới 2018 để các học sinh khiếm thị có thể tiếp cận được với chương trình mới. Hỗ trợ kinh phí để trẻ khuyết tật được sinh hoạt, giao lưu và tham gia các hoạt động ngoại khóa nhiều hơn nữa. Cần sớm xây dựng quy hoạch mạng lưới trường học, cơ sở giáo dục hòa nhập, xây dựng chương trình học cho trẻ khuyết tật phù hợp với các dạng tật và độ tuổi trên cơ sở đánh giá nhu cầu của các địa phương.

Đối với các cơ sở giáo dục phổ thông cần có chỉ tiêu tuyển giáo viên dạy trẻ khuyết tật để dạy học phù hợp với chuyên môn và nhu cầu học tập của trẻ. Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng hỗ trợ kinh nghiệm, kiến thức chuyên môn cho giáo viên đang làm công tác hỗ trợ giáo dục hòa nhập trong trường về chăm sóc và dạy trẻ khuyết tật. Có cơ chế chính sách, phụ cấp đặc thù cho giáo viên dạy trẻ khuyết tật.

Khi có trẻ khuyết tật đang trong độ tuổi đi học, nhu cầu về kiến thức, kỹ năng chăm sóc trẻ của cha mẹ, người thân trong gia đình trẻ là rất lớn, vì vậy, cộng đồng xã hội cần tổ chức các lớp tập huấn sâu hơn về kỹ năng chăm sóc trẻ khuyết tật cho cha mẹ và người thân trong gia đình hỗ trợ trẻ tốt hơn. Xây dựng và phát triển cộng đồng thân thiện hơn với các trẻ khuyết tật để các em gần gũi, hòa nhập hơn với những người xung quanh. Thành lập, phát triển các mô hình giúp cha mẹ tham gia để cùng hỗ trợ lẫn nhau về kỹ năng, kiến thức chăm sóc trẻ. Kêu gọi tài trợ, hỗ trợ kinh phí từ các doanh nghiệp, nhà hảo tâm… cho các trẻ để có cơ hội đi học, nhất là gia đình nghèo, có hoàn cảnh kinh tế khó khăn Hỗ trợ các gia đình có trẻ khuyết tật về kinh phí, bảo hiểm, các hoạt động khám chữa bệnh định kỳ, chăm sóc trẻ tại cộng đồng.

Các tổ chức hội của và vì người khuyết tật như Liên hiệp hội về người khuyết tật Việt Nam, Hội Bảo trợ người khuyết tật và trẻ mồ côi Việt Nam, Hội Khuyến học, Hội Cứu trợ trẻ em tàn tật Việt Nam, Hội Người mù Việt Nam… cần tích cực vận động cộng đồng chung tay giúp đỡ trẻ khuyết tật tiếp cận giáo dục bao gồm cả trợ giúp cho bản thân trẻ khuyết tật, trợ giúp các cơ sở giáo dục, trường phổ thông để từng bước giải quyết các khó khăn, xóa bỏ các rào cản để các em có điều kiện học tập, hòa nhập với bạn bè, thầy cô và môi trường giáo dục. Các tổ chức hội cũng cần làm tốt hơn nữa vai trò giám sát và phản biện xã hội trong quá trình hoạch định và tổ chức thực hiện các chính sách, chương trình của các cấp, các ngành nhằm hỗ trợ trẻ em khuyết tật được tiếp cận với các dịch vụ tại cộng đồng. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến chính sách đối với trẻ khuyết tật nói chung và chính sách hỗ trợ trẻ khuyết tật trong giáo dục hòa nhập, giáo dục chuyên biệt nhằm nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, gia đình và cộng đồng trong việc quan tâm hỗ trợ, giúp đỡ trẻ khuyết tật tiếp cận giáo dục.

Tin rằng, với một hệ thống chính sách tương đối đầy đủ cùng những giải pháp đồng bộ toàn diện, sự chung tay của các cấp, ngành và cộng đồng xã hội, quyền học tập của trẻ em khuyết tật sẽ được đảm bảo, trẻ em khuyết tật Việt Nam sẽ được tiếp cận một nền giáo dục hoà nhập, phát triển.

Nguyễn Thị Dung

Để lại bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Scroll to Top