- Bối cảnh chung
Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ người khuyết tật cao trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Theo kết quả Điều tra Người khuyết tật năm 2023 (VDS 2023), số lượng người khuyết tật từ 2 tuổi trở lên chiếm tỷ lệ 6,11% dân số cả nước. Khu vực nông thôn có tỷ lệ người khuyết tật cao gấp 1,4 lần so với khu vực thành thị. Về dạng tật, có sự khác biệt về tỷ lệ người khuyết tật chia theo chức năng giữa các nhóm tuổi. Cụ thể, ở nhóm tuổi từ 16 tuổi trở lên có tỷ lệ người khuyết tật về vận động thân dưới là cao nhất (5,20%), trong khi ở trẻ em 2-4 tuổi và 5-15 tuổi, tỷ lệ khuyết tật về thần kinh là cao nhất (lần lượt là 3,92% và 1,05%). Riêng với người khuyết tật các chức năng nghe, giao tiếp, người khuyết tật về nghe ở các nhóm tuổi 2-4 tuổi, 5-15 tuổi và nhóm tuổi từ 16 tuổi trở lên chiếm tỷ lệ lần lượt là 0,12%, 0,19% và 2,21% dân số cả nước; người khuyết tật về chức năng giao tiếp chiếm tỷ lệ lần lượt là 0,62%, 0,47% và 1,10% dân số cả nước[1].
Người khuyết tật (bao gồm người khuyết tật nghe, nói) phải đối mặt với nhiều khó khăn, rào cản trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội như y tế, giáo dục, học nghề, việc làm v.v Bên cạnh những rào cản chung về điều kiện vật chất, về thể chế, về kỳ thị xã hội… Người khuyết tật ở mỗi dạng tật lại có những khó khăn đặc thù và họ cần Nhà nước có những chính sách đặc thù cũng như những biện pháp thực thi chính sách đặc thù để đảm bảo quyền bình đẳng của họ với người không khuyết tật theo đúng tinh thần của Công ước quốc tế về các Quyền của Người khuyết tật (CRPD), đặc biệt là nguyên tắc: Cung cấp những dịch vụ y tế đặc biệt mà người khuyết tật cần do sự khuyết tật của họ (Điều 25 CRPD).
- Những điểm sáng của chính sách pháp luật đối với người khuyết tật, đặc biệt là người khuyết tật dạng nghe, nói trong khám bệnh, chữa bệnh hiện nay
Nhìn chung, những năm qua người khuyết tật luôn nhận được sự quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước, điều này thể hiện qua những chính sách và pháp luật liên quan đến người khuyết tật được ban hành quy định những quyền lợi của người khuyết tật nhằm thúc đẩy tạo cơ hội bình đẳng cho người khuyết tật trong thực hiện các quyền trong các lĩnh vực. Tuy nhiên, riêng trong lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe, vẫn còn nhiều khó khăn, rào cản chưa thực sự đảm bảo quyền của người khuyết tật (đặc biệt người khuyết tật nghe, nói) trong khám bệnh, chữa bệnh (KB, CB). Vì vậy, kể từ cuối năm 2018, Liên hiệp hội Người khuyết tật Việt Nam (Viện ACDC) đã bắt đầu tham gia hỗ trợ nhóm kỹ thuật của Bộ Y tế về sửa đổi, bổ sung Luật KB, CB năm 2009 cùng với Cục quản lý khám chữa bệnh và Vụ pháp chế, Bộ Y tế…Trong các năm tiếp theo, ACDC đã liên tục tham gia, đồng hành cùng các đơn vị có liên quan đề xuất, góp ý nhằm sửa đổi, bổ sung một số quy định trong Luật KB, CB năm 2009, nhằm bảo đảm quyền của người khuyết tật trong hoạt động KB, CB. Tính đến thời điểm hiện tại một số kiến nghị của Liên hiệp hội Người khuyết tật Việt Nam (ACDC) và một số tổ chức liên quan về sửa đổi, bổ sung chính sách liên quan đến người khuyết tật (trong đó có người khuyết tật nghe, nói) đã được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, công nhận và đưa vào nội dung của Luật KB, CB năm 2023 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2024).
Với sự ra đời của Luật KB, CB năm 2023 và các văn bản quy định chi tiết như Nghị định số 96/2023/NĐ-CP[2], có thể nói, hệ thống chính sách về KB, CB về cơ bản đã đảm bảo quyền KB, CB của người khuyết tật (gồm cả người khuyết tật nghe, nói) trên cơ sở tinh thần của CRPD và Hiến pháp Việt Nam. Điều này thể hiện ở một số khía cạnh như:
– Người khuyết tật (bao gồm cả người khuyết tật nghe, nói) được đảm bảo bình đẳng với người không khuyết tật, không bị phân biệt đối xử trong thụ hưởng các dịch vụ y tế, trước hết là KB, CB (khoản 1 Điều 14, Điều 22 Luật Người khuyết tật năm 2010, khoản 1 Điều 3 Luật KB, CB năm 2023).
– Người khuyết tật (bao gồm cả người khuyết tật nghe, nói) được hưởng một số quyền ưu tiên trong KB, CB (Điều 22, Điều 23 Luật Người khuyết tật năm 2010; khoản 2 Điều 3, khoản 2 Điều 4 Luật KB, CB năm 2023). Hơn nữa, Luật KB, CB năm 2023 đã bổ sung quy định mới tại Điều 68 về phục hồi chức năng mà trong đó, người khuyết tật là một trong những đối tượng chính để được hưởng chính sách này. Điểm mới này đảm bảo thực hiện quyền phục hồi chức năng đối với người khuyết tật, tương thích với quy định của Luật Người khuyết tật năm 2010 và CRPD.
– Đặc biệt, Luật KB, CB năm 2023 đã bổ sung một số chính sách nhằm tăng cường điều kiện đảm bảo quyền của người khuyết tật nghe, nói trong KB, CB (Luật Người khuyết tật năm 2010 sử dụng thuật ngữ người khuyết tật nghe, nói dùng cho người câm, điếc, khiếm thính. Luật KB, CB năm 2023 sử dụng thuật ngữ người khuyết tật về ngôn ngữ, sau đây xin gọi chung là người khuyết tật nghe, nói). Thể hiện qua việc:
+ Quy định chính sách chung về hỗ trợ phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu (NNKH) trong KB, CB cho người khuyết tật nghe, nói (Điều 21 Luật KB, CB năm 2023);
+ Quy định cụ thể về yêu cầu sử dụng hỗ trợ phiên dịch NNKH trong KB, CB; quy định về tiêu chí người phiên dịch NNKH trong KB, CB; điều kiện của cơ sở kiểm tra, công nhận phiên dịch NNKH trong KB, CB (Điều 36 và các Điều 139, 140-142 Nghị định số 96/2023/NĐ-CP).
Cũng cần nói thêm là: Trước thời gian Luật KB, CB năm 2023 được ban hành, Bộ Y tế cũng đã chủ động trong tổ chức triển khai các hoạt động KB, CB liên quan đến người khuyết tật, nhằm đảm bảo từng bước quyền của người khuyết tật nghe, nói trong KB, CB thông qua việc lồng ghép chính sách hỗ trợ phiên dịch NNKH trong nội dung “Bộ tiêu chí chất lượng bệnh viện Việt Nam” năm 2016 của Bộ Y tế (Quyết định số 6858/QĐ-BYT ngày 18/11/2016). Theo đó, một bệnh viện được đánh giá chất lượng rất tốt (mức 5) phải: “10. Có nhân viên phiên dịch cho người bệnh khiếm thính hoặc có phương án hợp tác, ký hợp đồng với người phiên dịch trong trường hợp có người bệnh khiếm thính đến khám, chữa bệnh; 11. Bảo đảm đáp ứng được người phiên dịch cho người bệnh khiếm thính trong vòng 90 phút khi được yêu cầu”.
- Một số khó khăn chủ yếu của người khuyết tật nghe, nói trong khám bệnh, chữa bệnh hiện nay
Như đã đề cập, mặc dù chính sách pháp luật về KB, CB hiện hành ở nước ta đã có nhiều điểm tích cực trong đảm bảo quyền của người khuyết tật nói chung và người khuyết tật nghe, nói trong KB, CB, nhưng trên thực tế, tính đến thời điểm hiện tại, người khuyết tật nghe, nói còn gặp khá nhiều khó khăn trong KB, CB. Theo khảo sát ý kiến của 100 người khuyết tật nghe, nói tại các tỉnh phía Bắc và miền Trung (như Hà Nội; Thái Nguyên; Hưng Yên; Quảng Ninh; Hải Phòng; Thừa Thiên Huế; Quảng Bình; Đà Nẵng…), chỉ có 7/100 người khuyết tật nghe, nói được tiếp cận dịch vụ y tế đầy đủ[3].
Những khó khăn chủ yếu có thể kể đến như:
Thứ nhất, tình trạng thiếu trầm trọng phiên dịch NNKH trong KB, CB vẫn đang tồn tại (ngay cả tại bệnh viện tuyến trung ương và các thành phố lớn).
Pháp luật quy định việc người khuyết tật nghe, nói cần đăng ký phiên dịch NNKH trước khi đến KB, CB (Điều 36 Nghị định số 96/2023/NĐ-CP). Tuy nhiên, với số lượng khoảng 30 người phiên dịch NNKH trên cả nước như hiện nay[4], khó có thể đáp ứng được nhu cầu KB, CB của người khuyết tật nghe, nói. Đặc biệt là đối với người khuyết tật nghe, nói ở vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa thì vấn đề bố trí phiên dịch NNKH có thể được xem là “không tưởng” trong thực tế hiện nay. Đó là chưa kể việc đăng ký phiên dịch NNKH chỉ có thể đáp ứng một phần nhỏ nhu cầu KB, CB thông thường, người khuyết tật nghe, nói đặc biệt gặp khó khăn khi thiếu hỗ trợ người phiên dịch NNKH trong trường hợp cấp cứu.
Bên cạnh đó, vẫn còn thiếu nhân viên y tế biết NNKH. Các y bác sĩ chịu áp lực về số lượng bệnh nhân đông và đa phần họ không biết sử dụng NNKH trong KB, CB… (tính đến thời điểm hiện tại).
Thứ hai, điều kiện tiếp cận đối với người khuyết tật nghe, nói trong KB, CB hầu như ít được quan tâm để đảm bảo: Hiện nay khi nói đến điều kiện đảm bảo tiếp cận đối với người khuyết tật trong KB, CB, từ quy định pháp luật đến trên thực tế đều tập trung vào các điều kiện đảm bảo tiếp cận đối với người khuyết tật dạng vận động và dạng nhìn mà hầu như chưa chú trọng đến một số điều kiện tiếp cận của người khuyết tật dạng nghe, nói. Chẳng hạn, theo kết quả của VDS 2023, các thông tin, chỉ số được thu thập liên quan đến trạm y tế đều chưa thể hiện yếu tố tiếp cận đối với người khuyết tật nghe, nói trong KB, CB. Cụ thể, trong phần trạm y tế (trang 14-15), các số liệu được thu thập tập trung vào trạm Y tế được thiết kế phù hợp với người khuyết tật theo 2 tiêu chí, gồm: (1) Trạm Y tế có lối đi, đường dốc dành cho người khuyết tật và (2) Trạm Y tế có công trình vệ sinh thiết kế phù hợp với người khuyết tật. Cả 2 tiêu chí này đều tập trung vào đối tượng là người khuyết tật vận động.
Trên thực tế, việc thiếu Bảng chỉ dẫn sơ đồ các phòng ban, quy trình KB, CB trong một số bệnh viện khiến người khuyết tật nghe, nói gặp không ít lúng túng khi KB, CB.
Việc thiếu Bảng điện tử thông báo lượt bệnh nhân vào KCB tại trước cửa mỗi phòng khám trong cơ sở KB, CB cũng gây khó khăn không nhỏ cho người khuyết tật nghe, nói trong KCB. Bảng điện tử thể hiện tên /tuổi người bệnh chờ đến lượt khám bệnh tại các cơ sở KB, CB không những cần cho mọi người bệnh mà đặc biệt là rất cần thiết đối với người khuyết tật nghe, nói. Trên thực tế không ít các cơ sở KB, CB chưa được bố trí bảng điện tử/ bố trí nhưng hỏng không vận hành/ sửa chữa nên việc xếp hàng chờ khám bệnh vẫn dùng phương pháp “truyền thống” là người bệnh nghe bác sĩ/ nhân viên y tế gọi tên (theo số, kể cả số được phát điện tử). Dẫn đến tình trạng không ít người khuyết tật nghe, nói không nghe rõ được tên mình khi được gọi đến lượt, phải chờ đợi lâu, đến khi đưa giấy vào khám thường là quá lượt hoặc phải khám cuối cùng. [5]
Bên cạnh đó, hầu như ở Việt Nam chưa đẩy mạnh phát triển thiết bị thông minh hỗ trợ chuyển đổi NNKH sang ngôn ngữ tiếng Việt (nói, viết) và ngược lại. Loại thiết bị này không nên coi là vấn đề xa xỉ, trong điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam hiện nay, nhất là trong điều kiện phát triển công nghiệp 4.0; điều kiện chuyển đổi số trên nhiều lĩnh vực đời sống, trong đó có dịch vụ y tế. Thiết bị này rất cần thiết vì đóng vai trò thay thế người phiên dịch NNKH khi không thể bố trí kịp thời người phiên dịch.
Thứ ba, vấn đề tài chính khi thuê phiên dịch NNKH cũng là một gánh nặng đối với người khuyết tật nghe, nói.
Đoạn 2, khoản 1 Điều 36 của Nghị định số 96/2023/NĐ- CP quy định chi tiết một số điều của Luật KB, CB năm 2023 quy định: “Trường hợp cơ sở KB, CB không thể bố trí được thì người bệnh phải tự bố trí người phiên dịch và tự chịu trách nhiệm về nội dung phiên dịch”.
Trên thực tế, khi bệnh viện không thể bố trí được phiên dịch NNKH, người bệnh là khuyết tật nghe, nói phải sử dụng dịch vụ thuê phiên dịch NNKH thì chi phí thuê phiên dịch NNKH trung bình khoảng 250.000 đồng/giờ[6]. Đây là gánh nặng tài chính không nhỏ đối với không ít người khuyết tật nghe, nói trong điều kiện mặt bằng chung thu nhập của người khuyết tật hiện nay (Theo kết quả VDS 2023, cả nước có 11,42% người khuyết tật từ 2 tuổi trở lên sống trong các hộ thuộc diện nghèo của xã, phường, thị trấn[7]).
Bên cạnh đó, như đã biết, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT năm 2024 vẫn tiếp tục giữ về cơ bản nội dung của khoản 8, Điều 23 Luật BHYT cũ. Theo đó, máy trợ thính vẫn được xếp vào một trong thiết bị hỗ trợ y tế mà bảo hiểm không thanh toán. Việc tự chi trả mua thiết bị máy trợ thính là điều xa xỉ với không ít người khuyết tật, khi điều kiện kinh tế đa số người khuyết tật còn hạn hẹp (số liệu đã dẫn chứng).
Thực trạng trên đây khiến việc giao tiếp giữa người hành nghề KB, CB và người bệnh là người khuyết tật nghe, nói gặp nhiều trở ngại. Khi đó, người hành nghề KB, CB không thể tư vấn, giải thích hoặc lắng nghe tâm tư nguyện vọng về phương án chữa bệnh của người khuyết tật một cách trực tiếp, đặc biệt đối với những người bệnh là người khuyết tật nghe, nói mà khả năng đọc viết tiếng Việt của họ cũng rất hạn chế. Đơn cử như có trường hợp một thai phụ là người điếc đi khám thai nhưng suýt nữa bị chỉ định đình chỉ thai bởi vì người này không thể diễn đạt cho bác sĩ hiểu là mình đi khám thai trong khi bác sĩ nghĩ rằng đi đình chỉ thai[8]. Bên cạnh đó, việc thiếu phiên dịch NNKH cũng hoàn toàn không thuận lợi cho người hành nghề KB, CB, khi trên thực tế các bác sĩ phải tiết kiệm thời gian KB, CB trong hoàn cảnh đông người bệnh tại cơ sở KB, CB. Đây thực sự là vấn đề khá nan giải đối với bệnh nhân là người khuyết tật dạng khuyết tật nghe, nói khi tiếp cận với dịch vụ y tế.
Thứ tư, về thái độ, nhận thức, cũng cần điểm qua một số lý do khác dẫn đến khó khăn đối với người bệnh là người khuyết tật nghe, nói tại các cơ sở KB, CB như: Thái độ thiếu nhiệt tình (hướng dẫn) của một vài nhân viên y tế đối với người bệnh là người khuyết tật nghe, nói tại một số cơ sở KB, CB (không nhiều, nhưng vẫn có trên thực tế); bản thân một số người bệnh là người khuyết tật nghe, nói chưa quan tâm tìm hiểu các thông tin cần thiết liên quan đến KB, CB trước khi đi KB, CB v.v.
- Một số kiến nghị đảm bảo quyền lợi của người khuyết tật nghe, nói trong khám bệnh, chữa bệnh
Thứ nhất, khẩn trương đào tạo đội ngũ phiên dịch NNKH để bổ sung nguồn phiên dịch NNKH tại các cơ sở KB, CB. Đây cần được xem là giải pháp “gốc”, vừa cấp bách, vừa lâu dài để khắc phục tình trạng thiếu người phiên dịch NNKH tại các cơ sở KB, CB.
Theo đó:
– Trước hết cần ưu tiên đẩy mạnh việc đào tạo các viên chức y tế về NNKH để các bệnh viện có thể sử dụng tại chỗ / linh hoạt đội ngũ này, đáp ứng yêu cầu chuyên môn KB, CB.
Phiên dịch NNKH phục vụ KB, CB đòi hỏi kiến thức chuyên môn y học, chính vì vậy, phương án tốt nhất là cần đào tạo, bồi dưỡng về NNKH cho đội ngũ nhân viên y tế để có thể huy động họ vào hoạt động KB, CB. Điều này nhằm đảm bảo chất lượng KB CB, đồng thời đặc biệt cần thiết trong những tình huống cấp cứu người bệnh mà người bệnh là người khuyết tật nghe, nói (không có người thân, không thể huy động kịp thời người phiên dịch NNKH chuyên nghiệp…).
– Để tạo tạo động lực cho viên chức y tế tham gia đào tạo, bồi dưỡng về NNKH, cần có chính sách khuyến khích cụ thể hơn đối với những viên chức y tế được công nhận đủ trình độ phiên dịch NNKH và phiên dịch thành thạo NNKH. Thiết nghĩ, trong phạm vi thẩm quyền của mình, Bộ Y tế cần cân nhắc có chính sách thích đáng như khen thưởng, xét tăng lương trước thời hạn, bổ sung phụ cấp nghề nghiệp v.v đối với những người hành nghề KB, CB có chứng chỉ phiên dịch NNKH và phiên dịch thành thạo NNKH trên thực tế.
– Đồng thời cần chú ý các giải pháp khuyến khích các cơ sở đào tạo (theo quy định của Nghị định số 96/2023/NĐ-CP và các cơ sở khác của Bộ Giáo dục và Đào tạo) đẩy mạnh đào tạo đội ngũ phiên dịch NNKH chuyên nghiệp, phục vụ cho nhu cầu đa dạng của người khuyết tật nghe, nói, đặc biệt là phục vụ người bệnh là người khuyết tật nghe, nói tại các cơ sở KB, CB.
– Bổ sung nội dung về việc chuẩn hóa chương trình đào tạo phiên dịch NNKH và kế hoạch để phát triển đội ngũ phiên dịch NNKH nói chung, và phiên dịch NNKH trong lĩnh vực y khoa nói riêng.
– Bên cạnh đó, chú ý bồi dưỡng kiến thức y học cơ bản cho đội ngũ phiên dịch NNKH chuyên nghiệp hiện hành.
Thứ hai, đẩy mạnh phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước về y tế (Sở y tế) và các bệnh viện lớn với Hội người khuyết tật, các tổ chức của người điếc/các công ty cung cấp phiên dịch NNKH để tạo nguồn phiên dịch NNKH cần thiết phục vụ KB, CB (bao gồm cả nguồn phiên dịch NNKH miễn phí). Tăng cường sự tham gia của người Điếc có trình độ trong việc nghiên cứu và xây dựng các chương trình đào tạo phiên dịch NNKH trong lĩnh vực y khoa.
Thứ ba, tăng cường điều kiện tiếp cận của người bệnh là người khuyết tật nghe, nói trong các cơ sở KB, CB:
Bộ Y tế cần xem xét có có văn bản chỉ đạo và tăng cường kiểm tra các cơ sở KB, CB nhằm đảm bảo điều kiện tiếp cận của người khuyết tật nghe, nói trong KB, CB như:
– 100% cơ sở KCB (đã được cấp giấy phép) cần đảm bảo có bảng chỉ dẫn, sơ đồ quy trình KCB để tất cả người bệnh dễ dàng nắm bắt (đặc biệt là đối với người bện là người khuyết tật nghe, nói);
– Cần tăng cường sử dụng bảng điện tử thông báo thứ tự khám bệnh tại cửa các khoa/ phòng khám bệnh. Trường hợp không có bảng điện tử, cần sử dụng biện pháp thủ công (như nhân viên y tế cần giơ bảng thông tin về số thứ tự/ tên bệnh nhân đến lượt khám) để đảm bảo điều kiện tiếp cận cho bệnh nhân là người khuyết tật nghe, nói.
– Từng bệnh viện cần công bố trên Website của bệnh viện hướng dẫn về quy trình đăng ký người phiên dịch NNKH tại cơ sở KB, CB cho người khuyết tật nghe, nói biết, thực hiện.
– Khuyến khích các cơ sở y tế (trước mắt là cơ sở ngoài công lập) ứng dụng các phương tiện hiện đại trong hỗ trợ phiên dịch NNKH như sử dụng hệ thống thiết bị thông minh chuyển đổi NNKH sang giọng nói/ chữ viết…
Thứ tư, đẩy mạnh tuyên truyền, thông tin đến cộng đồng người khuyết tật nghe, nói về chính sách pháp luật hiện hành liên quan đến đảm bảo quyền sử dụng NNKH trong KB, CB.
Thứ năm, tăng cường tuyên truyền pháp luật, nâng cao nhận thức của đội ngũ viên chức y tế trong hoạt động KCB đối với người bệnh là người khuyết tật nói chung (gồm người khuyết tật nghe, nói), nhằm đảm bảo đúng tinh thần của Điều 25 CRPD mà Việt Nam đã ký kết và tham gia (là các quốc gia cần nâng cao nhận thức về quyền con người, nhân phẩm, sự tự lực và nhu cầu của người khuyết tật, thông qua đào tạo và tuyên truyền tiêu chuẩn y đức cho cơ sở y tế công và tư…).
Thứ sáu, vẫn rất cần tiếp tục hoàn thiện thể chế liên quan đến đảm bảo điều kiện của người khuyết tật nghe, nói trong KB, CB.
– Mặc dù chính sách đảm bảo sử dụng NNKH trong KB, CB đã được khẳng định về cơ bản trong Luật KB, CB năm 2023 và Nghị định số 96/2023/NĐ-CP. Tuy nhiên, trong các văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành của Bộ Y tế hiện nay (Ví dụ: Thông tư 32/2023/TT-BYT) vẫn chưa có hướng dẫn chi tiết áp dụng chính sách nói trên trong thực tiễn. Vậy, cần cân nhắc bổ sung.
Đặc biệt, nên có những quy định “cứng” nhằm đảm bảo quyền được hỗ trợ phiên dịch NNKH trong KB, CB của người khuyết tật nghe, nói. Ví dụ như: Quy định số lượng tối thiểu số lượng người phiên dịch NNKH tại các bệnh viện từ cấp tỉnh trở lên (ứng dụng linh hoạt các hình thức phiên dịch NNKH khác nhau trong hoạt động KB, CB (trực tiếp; qua video call…).
– Về lâu dài vẫn cần nghiên cứu sửa đổi quy định tại khoản 8, Điều 23 của Luật BHYT hiện hành. Theo đó, thiết bị máy trợ thính cần được xếp vào danh mục các thiết bị hỗ trợ y tế được BHYT chi trả. Đồng thời, xem xét việc Quỹ BHYT chi trả một phần phí phiên dịch NNKH trong trường hợp người bệnh phải tự thuê phiên dịch NNKH theo quy định./.
Thạc sĩ Nguyễn Thị Lan Anh – Phó Chủ tịch Liên hiệp hội về người khuyết tật Việt Nam
Danh mục tài liệu tham khảo:
[1] Tổng cục thống kê (2018), Điều tra người khuyết tật năm 2023 (VDS 2023)
[2] Ban hành ngày 30/12/2023 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2024.
[3] Kết quả khảo sát của Công ty TNHH hỗ trợ kết nối người Điếc và cộng đồng (SCDeaf) về tình hình sức khỏe tâm thần hậu Covid khu vực phía Bắc và Trung của người điếc (trong khoảng thời gian ba năm, tính đến Tháng 2- 2022), Nguồn: Tài liệu tập huấn TOT – Giảng viên nguồn sức khỏe tâm thần cho 05 CLB Điếc khu vực Miền Bắc và Miền Trung.
[4] Thông tin từ bà Nguyễn Thị Hòa, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu thúc đẩy văn hóa điếc (tỉnh Đồng Nai), nguồn: https://thanhnien.vn/phien-dich-ngon-ngu-ky-hieu-nghe-hiem-nguoi-theo-1851491304.htm
[5] Nguồn: Phản ánh của một số đại biểu người khuyết tật nghe, nói tại Toạ đàm Tăng cường khả năng tiếp cận thông tin cho người khuyết tật nghe, nói tại các cơ sở y tế (Hà Nội, 10/6/2022).
[6] Nguồn: https://acdc.vn/vi/bai-viet/575-dich-vu-phien-dich-ngon-ngu-ky-hieu-trong-benh-vien.html (đăng ngày 29/6/2022)
[7] Biểu thông cáo báo chí Kết quả điều tra Người khuyết tật năm 2023, Biểu số 1.
[8] Nguồn: https://vovgiaothong.vn/thieu-phien-dich-vien-benh-nhan-dac-biet-thiet-thoi-ve-co-hoi-cham-soc-y-te (đăng ngày 07/12/2020).