Chiến lược phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong giai đoạn hậu Covid-19

(DHVO). Việc lựa chọn chiến lược phát triển một cách khoa học và phù hợp sẽ giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) thiết kế được các giải pháp chiến lược hiệu quả để có thể tận dụng được các cơ hội tốt nhất do thị trường mang lại, chủ động với những biến động của môi trường kinh doanh trong bối cảnh thị trường trong giai đoạn hậu Covid. Với các giải pháp chiến lược hiệu quả, DNNVV có thể duy trì và phát triển  được thị phần, đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng, từ đó, đạt được mục tiêu, phát triển ổn định, bền vững và sử dụng hiệu quả nhất nguồn lực có hạn. Bài báo đề xuất những giải pháp chiến lược phát triển của DNNVV, giúp doanh nghiệp (DN) có thể hoạch định được một chiến lược phát triển hiệu quả và khả thi, đảm bảo hiệu quả công tác quản trị chiến lược nói riêng và hiệu quả kinh doanh nói chung.

1. Đặt vấn đề

Chiến lược là một tập hợp các lựa chọn của DN nhằm đạt được mục tiêu trong điều kiện giới hạn về nguồn lực, và với những ưu điểm và kỳ vọng khác biệt. Chiến lược phản ánh ưu tiên của DN trước các lựa chọn khác nhau về phân khúc thị trường, đặc tính của sản phẩm, giá cả, kênh phân phối, hay thông điệp thương hiệu….

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường hiện đại và tác động của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 đến nền kinh tế của mọi quốc gia, khoa học, công nghệ đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, dẫn đến môi trường cạnh tranh giữa các DN trở nên ngày càng khốc liệt, xu hướng cạnh tranh giữa các DN đang có xu hướng chuyển từ cạnh tranh về giá sang cạnh tranh về chất lượng và khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Mặt khác, trong bối cảnh môi trường kinh doanh có nhiều biến động do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 như sự thay đổi trong nhu cầu của thị trường, sự biến động về ngành nghề và phương thức kinh doanh… đòi hỏi những DN yếu thế như DNNVV cần hoạch định và thực thi chiến lược phát triển nhằm chủ động thích ứng với biến động của môi trường kinh doanh, ổn định hoạt động và đạt hiệu quả kinh doanh. Trong điều kiện kinh doanh hiện nay, việc hoạch định và thực thi chiến lược phát triển của các DNNVV là tất yếu khách quan, là đòi hỏi cấp thiết giúp DN nhằm tận dụng tối đa những cơ hội từ thị trường và biến những lợi thế của mình thành sức mạnh cạnh tranh trên thị trường.

2. Tác động của đại dịch Covid-19 tới doanh nghiệp nhỏ và vừa

2.1. Tác động đến doanh thu của doanh nghiệp nhỏ và vừa

Theo số liệu khảo sát, trong 6 tháng đầu năm 2020, doanh thu của các DNNVV có xu hướng xụt giảm đáng kể và hầu hết các DN phải thu hẹp quy mô sản xuất, tuy nhiên, mức độ thu hẹp có sự khác nhau tùy theo các ngành nghề kinh doanh khác nhau. Tính trung bình trong tháng 4 năm 2020, doanh thu của các DNNVV đạt 22% so với doanh thu tháng 12 năm 2020. Những ngành có mức độ sụt giảm doanh thu cao nhất do ảnh hưởng của đại dịch Covid 19 là DN ngành du lịch và các dịch vụ liên quan như khách sạn, nhà hàng… hoặc những DN sản xuất hàng may mặc và da giày. Các DNNVV trong ngành du lịch và dịch vụ liên quan ghi nhận doanh thu tháng 4 là thấp nhất, đạt 13%  so với tháng 12 năm 2019. Trong tháng 4 năm 2020, khi đỉnh điểm đại dịch, các DNNVV ở các vùng dân tộc thiểu số có xu hướng sụt giảm doanh thu cao hơn so với các khu vực khác. Tuy nhiên, các DNNVV ở khu vực thành thị có sự sụt giảm doanh thu cao hơn so với các DN khu vực ở nông thôn. Nguyên nhân cơ bản là các hoạt động thương mại quốc tế và có độ tiếp xúc trực tiếp cao được tập trung đông ở khu vực thành thị. Trong thời điểm đỉnh dịch, doanh thu của các DNNVV do nữ lãnh đạo là 17% so với tháng 12 năm 2019, thấp hơn tỷ lệ ở các đơn vị do nam giới lãnh đạo (24%).

2.2. Tác động đến nguồn nhân lực của doanh nghiệp nhỏ và vừa

Do sụt giảm các đơn đặt hàng và gián đoạn nguồn cung đầu vào, hầu hết các DNNVV đều thu hẹp quy mô hoạt động bằng việc cắt giảm lực lượng lao động. Trong hai tháng đầu của quý 2 năm 2020, có 23,8% số DNNVV phải cắt giảm tới 50% số lượng lao động so với tháng 12 năm 2019. Những DN càng có qui mô nhỏ càng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid và mức độ cắt giảm lao động càng cao. Vào tháng 5 năm 2020, tỷ lệ quy mô lao động trung bình trong các DNNVV đã giảm xuống mức 70% so với tháng 12 năm 2019.

2.3. Tác động đến hoạt động tài chính của doanh nghiệp nhỏ và vừa

Theo số liệu khảo sát, có 34% DNNVV được khảo sát cho rằng Covid-19 ảnh hưởng lớn đến hoạt động tài chính của DN. Trong giai đoạn này, các DN xác định ưu tiên trước mắt là sống sót qua cuộc khủng hoảng và theo dõi chặt chẽ dòng tiền để xây dựng và tăng trưởng trở lại. Hầu hết các DNNVV có đòn bẩy tài chính thấp và không có nhiều khả năng tiếp cận đối với các khoản vay chính thức theo đặc tính kinh doanh quy mô nhỏ của DN. Trong khi đó, chỉ có một vài DNNVV có thể tiếp cận được các gói hỗ trợ, do thiết kế ưu tiên cho các khách hàng hiện tại trong hệ thống của ngân hàng.

3. Chiến lược phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa

3.1. Bối cảnh kinh tế trong nước và thế giới

a. Bối cảnh kinh tế thế giới

Trên thế giới, tất cả các nền kinh tế đều đồng thời bị tác động bởi đại dịch Covid-19, dẫn đến cả cung và cầu về hàng hóa đồng thời bị suy giảm, kinh tế và thương mại sa sút do hiệu ứng từ những biện pháp hành chính cần thiết để đối phó đại dịch như phong tỏa, giãn cách hay cách ly xã hội, phong toả biên giới quốc gia…. Chuỗi cung ứng và chuỗi tạo giá trị sẽ thay đổi theo hướng vừa được đa dạng hơn, dễ dàng và nhanh chóng có thể thay thế được cho nhau hơn, và tạo thành mạng lưới kết nối nhiều chuỗi với nhau để “bọc đỡ” lẫn nhau. Trong thời gian tới, kinh tế và thương mại thế giới sẽ còn thay đổi bởi sự hình thành của một nhu cầu đảm bảo an ninh mới – như đảm bảo an ninh lương thực hay đảm bảo an ninh năng lượng – là các đối tác đảm bảo luôn tự chủ về cung ứng những sản phẩm, thiết bị hay vật liệu cần thiết để đối phó khủng hoảng, đặc biệt về thuốc men, trang thiết bị y tế và tăng cường khả năng có thể nhanh chóng chuyển đổi sản xuất bình thường sang sản xuất những vật dụng hay thiết bị cần thiết cho việc ứng phó khủng hoảng. Cơ cấu kinh tế và thương mại quốc gia và quốc tế vì thế sẽ thay đổi, ưu tiên chính sách kinh tế và thương mại quốc gia vì thế cũng thay đổi. Những ngành kinh tế như ngành du lịch và vận tải, đặc biệt hàng không, sẽ thay đổi rất cơ bản. Tất cả các đối tác đều phải định hình lại chính sách xuất nhập cảnh và quản lý biên giới quốc gia, chiến lược phát triển du lịch và hoạt động giao thông vận tải trên bộ, trên không cũng như trên biển. Các quốc gia và vùng lãnh thổ sẽ không co về đóng cửa hay khép kín, nhưng việc kiểm soát thông thương, đặc biệt về dịch tễ, sẽ phải thắt chặt hơn và đảm bảo hiệu quả hơn rất nhiều.

b. Bối cảnh kinh tế trong nước

Do hội nhập kinh tế sâu rộng, nền kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch Covid-19, nhưng cũng thể hiện sức chống chịu đáng kể. Kinh tế vĩ mô và tài khóa ổn định với mức tăng trưởng GDP ước đạt 1,8% trong nửa đầu năm 2020, dự kiến đạt 2,8% trong cả năm. Việt Nam là một trong số ít quốc gia trên thế giới không dự báo suy thoái kinh tế, nhưng tốc độ tăng trưởng dự kiến năm nay thấp hơn nhiều so với dự báo trước khủng hoảng là 6-7%. Tuy nhiên, tác động của cuộc khủng hoảng Covid-19 đang diễn ra là khó dự đoán, và sức ép lên tài chính công sẽ gia tăng do thu ngân sách giảm xuống trong khi chi ngân sách tăng lên do gói kích cầu được kích hoạt để giảm thiểu tác động của đại dịch đối với các DN. Mặc dù vậy, theo dự báo của World Bank, nhờ có nền tảng cơ bản tốt và nếu tình hình dịch bệnh Covid-19 được kiểm soát ở Việt Nam cũng như trên thế giới, kinh tế Việt Nam sẽ hồi phục vào năm 2021. Mặt khác, nhu cầu của thị trường thế giới có khả năng sẽ được cải thiện trong quý 4 và thúc đẩy tăng trưởng của lĩnh vực sản xuất – ước đạt khoảng 7,3% trong 2020. Hoạt động xuất nhập khẩu, do đó cũng sẽ gia tăng và tiếp tục tạo ra thặng dư thương mại trong năm nay. Hoạt động xây dựng dự kiến hồi phục trong quý 4 nhờ đầu tư công vào cơ sở hạ tầng được thúc đẩy. Tiêu dùng cá nhân, vốn đóng góp 68% vào GDP, được dự báo sẽ tăng mạnh trong quý cuối cùng của năm nhờ yếu tố tâm lý thị trường được cải thiện. Tuy nhiên, đầu tư của lĩnh vực tư nhân có khả năng sẽ không mấy khởi sắc trước những lo ngại về nhu cầu trong trung hạn. Dòng vốn FDI đăng ký mới vào Việt Nam sẽ suy giảm trong năm nay, nhưng vẫn ở mức cao, đạt 13 tỷ USD. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ tiếp tục duy trì chính sách linh hoạt trong ngắn hạn để hỗ trợ tăng trưởng. Việc Ngân hàng Nhà nước liên tục cắt giảm lãi suất từ đầu năm đến nay và nền kinh tế được mở cửa trở lại được kỳ vọng sẽ thúc đẩy tăng trưởng tín dụng trong ngắn hạn. Trong thời gian tới, Việt Nam tiếp tục tập trung thực hiện hiệu quả “mục tiêu kép” vừa phòng chống dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe nhân dân vừa phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội trong trạng thái bình thường mới trên cơ sở giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn; thúc đẩy mạnh mẽ cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tính tự chủ và sức cạnh tranh; phát triển mạnh thị trường trong nước…nhằm đạt mục tiêu tăng GDP khoảng 6% so với năm 2020; quy mô GDP bình quân khoảng 3.700 USD/người, tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân khoảng 4%.

3.2. Khả năng phục hồi của doanh nghiệp nhỏ và vừa sau dịch Covid-19

Tháng 5 năm 2020 đã bắt đầu có tín hiệu phục hồi của các DNNVV với sự tăng nhẹ hoặc ổn định về doanh thu của tất cả các loại hình DN. Vào tháng 5 năm 2020, mặc dù doanh thu của DNNVV vẫn thấp hơn nhiều so với tháng 12 năm 2019 nhưng có xu hướng cao hơn so với doanh thu tháng 4 năm 2020 của các DN này. Doanh thu tháng 5 năm 2020 của các DNNVV tăng bình quân 35% so với tháng 4. Tuy nhiên, sự phục hồi của các nhóm DN khác nhau đang có sự khác biệt. Có một số nhóm DN bị giảm sâu về doanh thu trong tháng 5 năm 2020, đặc biệt là các DN kinh doanh trong ngành du lịch và các dịch vụ liên quan, với mức sụt giảm doanh thu xuống còn 8% tháng 12 năm 2019. Phần lớn các DN đều nhận thấy rằng tình hình vẫn còn khó khăn và không có DN nào cho rằng sự phục hồi hoàn toàn như thời điểm trước dịch bệnh vào tháng 12 năm 2019 có thể đạt được trong quý 3 năm 2020.

3.3. Giải pháp chiến lược phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa

a. Đổi mới sản phẩm và dịch vụ

Đại dịch Covid-19 đã làm thay đổi sâu sắc nhu cầu và thói quen mua hàng của khách hàng theo hướng ưa chuộng hàng nội địa, chuyển từ tương tác trực tiếp, truyền thống sang tương tác trực tuyến nhiều hơn, kỳ vọng của khách hàng chuyển từ cá nhân hóa sang các dịch vụ trực tuyến theo nhu cầu. Khách hàng cũng sẵn sàng chia sẻ thông tin cá nhân nhưng đòi hỏi mức độ bảo mật cao hơn. Trước những biến đổi về nhu cầu và thói quen mua hàng của khách hàng, DNNVV cần đảm bảo chất lượng sản phẩm, dịch vụ, đáp ứng yêu cầu khách hàng, đồng thời tăng năng suất lao động, hiệu quả hoạt động của DN. Để nâng cao chất lượng sản phẩm và năng suất lao động, DNNVV cần tăng cường đầu tư, đổi mới công nghệ, áp dụng đổi mới sáng tạo trong thiết kế sản phẩm, quy trình sản xuất, quản lý quá trình, trong đó, việc coi trọng đầu tư cho khoa học công nghệ là điểm mấu chốt giúp DN vượt qua khó khăn trong bối cảnh Covid-19 và tận dụng được cơ hội để phát triển.

b. Tái cấu trúc doanh nghiệp

Với các DN yếu thế như DNNVV, cần đảm bảo tính chuyên nghiệp và linh hoạt để có thể nhanh chóng thích ứng với sự thay đổi của môi trường kinh doanh. Với sự tác động đến mọi khía cạnh của đại dịch Covid-19, các DNNVV cần phải thực hiện một cuộc tái cấu trúc, từ chiến lược, tài chính, nhân sự, hệ thống quản lý đến văn hóa DN… để chủ động và nhanh chóng có những giải pháp ứng phó với sự biến động của môi trường kinh doanh. Để thực hiện tái cấu trúc, DNNVV cần thực hiện: (1) tái thiết lập lực lượng bán hàng và khả năng tương tác với khách hàng; (2) đẩy mạnh tích hợp giữa các mô hình kinh doanh mới và hiện tại (ví dụ: truyền thống so với thương mại điện tử, sản phẩm so với dịch vụ, trực tiếp so với kỹ thuật số); (3) chuyển đổi chi phí marketing sang các kênh có khả năng nắm bắt nhu cầu khách hàng; (4) cắt giảm những sản phẩm mang lại lợi nhuận thấp, cắt giảm chi phí hàng tồn kho…

c. Thực hiện chuyển đổi số

Trong bối cảnh hậu Covid-19, quá trình hội nhập và kinh tế số đã trở thành một xu thế tất yếu đối với các quốc gia trên giới, các DNNVV cần làm chủ công nghệ, đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực của mình thông qua việc thay đổi phương thức kinh doanh truyền thống sang chuyển đổi số, thương mại điện tử. Doanh thu của hoạt động bán hàng trực tuyến trên toàn cầu quý II/2020 đã tăng vọt 71% so với cùng kì năm trước, lượng truy cập của trang thương mại điện cũng tăng 37%. Tỷ lệ chuyển đổi từ khách truy cập thành khách mua hàng tăng tới 35% và mức chi tiêu của người dùng cũng tăng 34%. Tuy nhiên, hiện nay mới có khoảng 30% DNNVV biết đến chuyển đổi số và số hóa, việc áp dụng của các DN mới chỉ ở bước đầu. Các DNNVV vẫn đang loay hoay trong quá trình chuyển đổi từ DN truyền thống sang DN số do đa phần DNNVV vẫn giữ lối tư duy sản xuất cũ, đặc biệt là tư duy về quản lý chất lượng  và quản trị kinh doanh. Ngoài ra, khả năng tiếp cận và xây dựng hệ thống quản lý chất lượng và quản trị kinh doanh tại các DNNVV còn hạn chế do lãnh đạo DN và người lao động chưa thực sự quan tâm đến vấn đề tái cấu trúc….

Chuyển đổi số không chỉ là hoạt động đầu tư và vận hành công nghệ số mà còn là quá trình ứng dụng công nghệ để tạo ra hoặc thay đổi các quy trình quản trị DN, phương thức kinh doanh, văn hóa và trải nghiệm khách hàng đáp ứng nhu cầu của thị trường… Chính vì vậy, để thực hiện chuyển đổi số, các DNNVV không chỉ cần đầu tư đổi mới công nghệ mà cần đầu tư thích đáng cho nguồn nhân lực, bởi vì, nguồn nhân lực của DN là một trong những yếu tố cốt lõi đảm bảo sự thành công của chuyển đổi số. Doanh nghiệp cần đảm bảo và duy trì một tinh thần sáng tạo, có tâm thế sẵn sàng tiếp nhận cái mới của toàn bộ người lao động trong DN.

d. Tăng cường thực hiện cắt giảm chi phí

Kinh doanh trong giai đoạn hậu Covid-19, các DNNVV cần phải thực hiện tốt những quy định về y tế như sử dụng sử dụng khẩu trang, nước sát khuẩn tay và giãn cách xã hội. Việc tuân thủ các quy định này sẽ làm tăng chí phí sản xuất kinh doanh của DN. Để cắt giảm chi phí, tạo điều kiện giảm giá bán nhằm duy trì thị trường, ổn định doanh thu, các DNNVV cần thực hiện các biện pháp cắt giảm chi phí như: (1) thay đổi phương thức của hoạt động thương mại theo hướng ưu tiên thương mại điện tử, hoạt động trực tuyến, thực hiện đẩy mạnh mở rộng sang các thị trường mới ở các tỉnh và thành phố lớn khác, thông qua việc tăng cường kết nối với thị trường thông qua nền tảng thương mại điện tử và các công cụ marketing trực tuyến như Amazon, alibaba, Facebook và Zalo…; (2) tái cấu trúc dây chuyền, khu vực sản xuất, thực hiện đổi mới công nghệ sản xuất và cải tiến quy trình sản xuất theo hướng tăng năng suất lao động, loại bỏ tối đa các thao tác dư thừa gây tốn sức người, nguyên, nhiên liệu; (3) thiết kế cơ cấu tổ chức sản xuất tinh gọn, tối thiểu hoá thời gian chờ việc của công nhân và giảm tối đa xung đột trong giữa các công đoạn sản xuất; (4) thiết kế hệ thống quản trị chuỗi cung ứng đảm bảo thông suốt giữa các công đoạn từ khâu tiếp nhận đơn đặt hàng – xác định tiêu chuẩn nguyên liệu – lựa chọn nhà cung cấp – tiếp nhận lưu kho – xuất kho nguyên vật liệu; (5) xác định lượng vật tư, hàng hóa tồn kho tối ưu theo hướng tối thiểu hoá chi phí tồn trữ, chi phí dự trữ an toàn và chi phí mua hàng, sử dụng các nguồn cung ứng và dịch vụ kho vận đa dạng hơn, thực hiện tốt chức năng dự báo nhu cầu tiêu thụ và nguyên vật liệu để chủ động trong kế hoạch sản xuất giảm thiểu sự thiếu hụt cũng như dư thừa nguyên vật liệu, thành phẩm tồn kho.

e. Ưu tiên đầu tư vào thị trường ngách

Công ty đo lường và phân tích dữ liệu toàn cầu Nielsen chỉ ra dịch Covid-19 đã tạo nên những thay đổi đáng kể trong hành vi và thói quen của người Việt và đưa ra một số dự báo về nhu cầu và hành vi tiêu dùng. Trong đó, người tiêu dùng ưu tiên tiện nghi gần nơi ở – sinh sống ở những khu vực có cửa hàng, chợ, khu vui chơi và mua mang về. Đặc biệt, khách hàng ủng hộ những thương hiệu địa phương bằng việc hỗ trợ ngành kinh doanh, cộng đồng, thương hiệu, nhà bán lẻ địa phương. Mặt khác,  trong thời gian Covid-19 đang diễn biến phức tạp ở Việt Nam các ban, bộ, ngành đã đưa ra nhiều cuộc phát động hướng tới phát triển thị trường ngách như “Người Việt Nam du lịch Việt Nam” của bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch giữa dịch Covid-19 nhằm thúc đẩy phục hồi nền du lịch nước nhà. Ngoài ra, các chiến dịch “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, “Hàng Việt Nam chinh phục người Việt Nam” do Uỷ ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam phát động đã được tích cực đẩy mạnh trong bối cảnh Covid-19. Với xu hướng thay đổi về môi trường kinh doanh và nhu cầu thị trường, việc ưu tiên đầu tư vào thị trường ngách sẽ giúp DNNVV vượt qua được những khó khăn do đại dịch Covid-19 và tận dụng được các cơ hội từ thị trường. Để thực hiện giải pháp chiến lược này, các DNNVV cần chú trọng phát triển sản phẩm phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của người Việt Nam, do đó tạo thêm nhu cầu tiêu tiêu dùng để tiếp tục duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh trong thời kỳ hậu Covid-19. Với lĩnh vực bất động sản, có thể đầu tư vào các dự án chung cư bình dân, giá thấp. Hiện nay nhu cầu về chung cư có mức giá dưới 25 triệu đồng/m2, chiếm đến 70 – 80% thị trường. Với ngành may mặc, các DNNVV có thể tìm thấy cơ hội ở các thị trường ngách như: sản xuất khẩu trang vải, quần áo bảo hộ chuyên dụng… Các DN ngành hàng không có thể đẩy mạnh khai thác các đường nội địa bằng nhiều chương trình ưu đãi cho khách hàng, hướng tới kết nối những điểm đến có tiềm năng về du lịch nhưng chưa được khai thác triệt để với những dịch vụ chất lượng như đúng giờ, nhanh chóng, thuận tiện và giá rẻ… Đặc biệt, các DNNVV cần có định hướng phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ như sản xuất linh kiện, phụ tùng (bao gồm linh kiện điện – điện tử, linh kiện lắp ráp ôtô và linh kiện cơ khí chế tạo); sản xuất  phục vụ ngành dệt may, da giày; phục vụ công nghiệp công nghệ cao. Đây là những lĩnh vực vừa giúp DN Việt Nam chủ động tăng cường chuỗi cung ứng nội địa, liên kết tốt hơn giữa các DNNVV với chuỗi cung ứng nội địa có thể giúp hạn chế tác động của sự gián đoạn chuỗi cung ứng quốc tế và hoạt động cung ứng đầu vào do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, vừa đảm bảo giúp các DNNVV tận dụng được cơ hội từ thị trường, tạo điều kiện giúp DNNVV phục hồi nhanh hơn, vừa đảm bảo kinh tế Việt Nam phát triển.

4. Kết luận

Hoạch định và thực thi chiến lược kinh doanh là một trong những yêu cầu tất yếu đối với DNNVV hoạt động trong điều kiện môi trường kinh doanh đầy biến động do đại dịch Covid-19. Những giải pháp chiến lược đối với DNNVV trong giai đoạn hậu Covid-19 được xác định là: đổi mới sản phẩm, dịch vụ và cách tiếp cận thị trường đảm bảo phù hợp với biến động về nhu cầu, thói quen mua hàng của khách hàng và đảm bảo cắt giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh; thực hiện tái cấu trúc về tài chính, nhân lực… nhằm đạt được mô hình quản trị chất lượng và quản trị doanh nghiệp phù hợp nhất với sự biến động của môi trường kinh doanh; thực hiện chuyển đổi số; thực hiện cắt giảm chi phí và ưu tiên đầu tư vào thị trường ngách. Để thực hiện được các giải pháp chiến lược trên, đòi hỏi cần có sự hỗ trợ của Nhà nước, của các tổ chức, hiệp hội đặc biệt là tạo nguồn tài chính thuận lợi cho DN tiếp cận được vốn đầu tư, từ đó có thể thực hiện đổi mới công nghệ, thiết lập nền tảng kỹ thuật số, tái đào tạo nguồn nhân lực chất lượng, có thể đáp ứng yêu cầu của sự tái cấu trúc DN…/.

TS. Nguyễn Thị Hồng Loan

Đại học Công nghệ và Quản lý hữu nghị

Bài viết được đăng trên Tạp chí Đồng Hành Việt số chuyên đề  “Giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp xử lý vướng mắc pháp sinh trong bối cảnh dịch Covid-19” do Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp 2015-2020 của Bộ Tư pháp (Chương trình 585) hỗ trợ thực hiện. Thông qua các bài viết được trong số chuyên đề mong muốn các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhất là các doanh nghiệp của và vì người khuyết tật cũng như doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động là người khuyết tật sẽ có thêm một số kiến thức, bài học, kinh nghiệm cùng cacs giải pháp để vượt qua khó khăn, lớn mạnh phát triển góp phần vào hoàn thành mục tiêu kinh tế mà Chính phủ đã đề ra trong bối cảnh bình thường mới do đại dịch hoành hành cũng như tiếp tục đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước…

Bài viết liên quan

Picture3

Cần tăng cường phổ biến kiến thức pháp luật cho người khuyết tật

Picture2

HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM

Picture3

MỘT SỐ NỘI DUNG MỚI CỦA LUẬT GIAO DỊCH ĐIỆN TỬ NĂM 2023

Picture5

THỰC HIỆN QUYỀN CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT TỰ KỶ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY – THỰC TẾ, KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC, KIẾN NGHỊ

Picture2

HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM

TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA PHÁP NHÂN THƯƠNG MẠI KHÔNG LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA CÁ NHÂN

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang