VIỆT NAM VÀ HÀNH TRÌNH 80 NĂM ĐỘC LẬP – TỰ DO – HẠNH PHÚC

Thành công của Cách mạng tháng Tám ngày 19/8/1945 đã đánh dấu sự chấm dứt gần 100 năm Pháp thuộc và thời kỳ phát xít Nhật chiếm đóng. Và ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

   Ngay từ lời mở đầu của Bản Tuyên ngôn, Người đã trích dẫn những giá trị tinh hoa trong tư tưởng nhân quyền của nhân loại cũng như từ chính các quốc gia đã từng xâm lược Việt Nam để làm tăng sức nặng cũng như sự khẳng định bằng chính những lập luận về độc lập, chủ quyền của quốc gia đó. Đó chính là: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” – trích trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ; “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”- Trích trong Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp

   Sự nhấn mạnh đó không chỉ khẳng định quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam mà còn là lời thề bất diệt của một dân tộc đã trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, từng chịu biết bao đau thương mất mát dưới ách đô hộ ngoại bang. Từ khoảnh khắc ấy, dân tộc Việt Nam bước vào một hành trình mới – hành trình có thể đầy gian nan nhưng nhiều vinh quang và rất đỗi tự hào để bảo vệ và phát triển những giá trị cốt lõi, mục tiêu của đất nước: Độc lập – Tự do – Hạnh phúc.

   GS.TS. Phạm Hồng Tung từ Đại học Quốc gia Hà Nội nhấn mạnh: “Tiêu ngữ Độc lập – Tự do – Hạnh phúc là ba mục tiêu cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, mục tiêu phấn đấu của toàn thể dân tộc Việt Nam như mẫu số chung để quy tụ nhân tâm, định hướng chính trị của toàn thể dân tộc Việt Nam, bất kể là công nhân, nông dân, bất kể là người Kinh hay là người dân tộc thiểu số”.

   GS.TSKH. Vũ Minh Giang, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, cho biết: “Sáu chữ trong tiêu ngữ vừa thể hiện tính chất bản chất của Nhà nước mới nhưng đồng thời cũng là lời cam kết chính quyền đối với toàn dân. Mặc dù hoàn cảnh lịch sử có thể thay đổi đấy nhưng cái thuộc tính, sự cam kết với nhân dân là độc lập, tự do, hạnh phúc thì không hề thay đổi”. Nguồn trích dẫn: https://vtv.vn/chinh-tri/doc-lap-tu-do-hanh-phuc-20240901211923335.htm

   Trong suốt 80 năm ấy, kể từ ngày khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, lịch sử dân tộc đã trải qua biết bao biến cố thăng trầm. Đất nước, con người Việt Nam ta đã phải trải qua biết bao thử thách, hy sinh, mất mát khi vừa lập nước trong bối cảnh khó khăn, thiếu thốn, giặc đói, giặc dốt hoành hành; tiếp tục phải đối diện với sự quay lại xâm lược của Pháp kéo dài suốt 9 năm và kết thúc bằng Chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu; trải qua cuộc chiến chống Mỹ cứu nước kéo dài suốt 20 năm và kết thúc bằng Chiến dịch Mùa Xuân 1975/Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử; cuộc chiến chống Polpot tại biên giới phía Tây Nam với Campuchia; cuộc chiến chống giặc phương Bắc tại biên giới với Trung Quốc… nhưng cũng không ít những thành tựu, kết quả nổi bật nhất là sau thời kỳ đổi mới; vượt qua giai đoạn khó khăn, khủng hoảng với sự sụp đổ của khối chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu để vững bước tiến lên con đường chủ nghĩa xã hội; bình thường hóa, mở rộng quan hệ ngoại giao với nhiều quốc gia trong đó phải kể đến Hoa Kỳ.

   Mặc dù bên cạnh những bước tiến dài, vẫn còn đó những tồn tại và hạn chế nhất định từ những bất cập trong quản lý hành chính; chính sách chưa thật sự hiệu quả hoặc chưa đi sâu vào đời sống; cho tới những biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, cậy chức quyền, con ông cháu cha – vốn là những hạn chế có phần tất yếu của một quá trình phát triển nhất là trong bối cảnh giai đoạn đổi mới. Song điều đó không thể che mờ những thành tựu to lớn mà công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã mang lại – đó chính là một Việt Nam với cơ đồ như ngày hôm nay.

   Bước vào giai đoạn phát triển mới, với tầm nhìn đến năm 2045 sẽ đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, Việt Nam có các ưu đóng vai trò quan trọng, mang tính tiên quyết: Nền chính trị ổn định; vị thế trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao; môi trường kinh doanh cải thiện liên tục; nguồn nhân lực trẻ và năng động cùng khát vọng vươn lên mạnh mẽ của toàn dân tộc.

   Mô hình chính quyền hai cấp từ năm 2025 cùng công cuộc chuyển đổi số toàn diện cũng sẽ là đòn bẩy chiến lược, tạo nền tảng để quản trị đất nước hiện đại, minh bạch, hiệu quả, đồng thời nuôi dưỡng môi trường sáng tạo và nâng cao chất lượng sống của Nhân dân. Cùng với đó, còn có thể kể đến những quyết sách cải cách hành chính; mở rộng kinh tế tư nhân; phát triển khoa học – công nghệ, nâng cao chất lượng giáo dục và y tế; tất cả đều hướng tới mục tiêu cao nhất đó là: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Thậm chí, ngay cả trong những giai đoạn tưởng như khó khăn nhất — như đại dịch Covid-19 hay khi kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái — Việt Nam vẫn đứng vững, duy trì ổn định và tìm thấy cơ hội trong thách thức. Đó là minh chứng cho khả năng thích ứng, sáng tạo và sức sống bền bỉ của một dân tộc quật cường, không khuất phục. Hay như việc có những giải pháp thiết thực, hữu hiệu như công cuộc đốt lò, cải tổ, tinh gọn bộ máy để giải quyết những tồn tại, hạn chế trong công tác cán bộ, phòng chống tham nhũng…. Cũng trở thành động lực và là một trong những giải pháp thiết thực thúc đẩy trong việc phát triển xã hội.

   Bên cạnh đó, trong suốt 80 năm qua, chính sách đối với người có công luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm hàng đầu. Hệ thống pháp luật, chế độ ưu đãi không ngừng được hoàn thiện, hàng triệu gia đình thương binh, liệt sĩ, cựu chiến binh, thanh niên xung phong được chăm lo cả về vật chất và tinh thần. Song song với đó, các chính sách an sinh xã hội được mở rộng nhằm bao phủ và bảo vệ những nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương trong xã hội. Người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người cao tuổi, phụ nữ đơn thân… đều nhận được sự quan tâm với những chương trình, dự án và chính sách cụ thể, toàn diện và ngày càng đầy đủ hơn. Việt Nam từng bước xây dựng hệ thống bảo trợ xã hội hiện đại, góp phần bảo đảm công bằng, nhân văn và sự gắn kết trong cộng đồng cũng như tạo điều kiện để mọi công dân đều được thực hiện quyền và nghĩa vụ của bản thân…

  Đó là những nét đẹp truyền thống, thể hiện những giá trị văn hóa cốt lõi của dân tộc bên cạnh việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Những giá trị đó không những được gìn giữ mà ngày càng phát huy đặc biệt là lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, nhân ái, cần cù, sáng tạo. Và chính những giá trị ấy đã hun đúc nên bản lĩnh Việt Nam – vượt qua muôn vàn thử thách để vươn lên mạnh mẽ. Trong đó, có thể kể đến việc hế hệ trẻ ngày nay bên cạnh việc được khuyến khích đã tự chủ động học tập, nghiên cứu, tìm hiểu lịch sử hào hùng của cha ông để từ đó nuôi dưỡng niềm tự hào dân tộc, khát vọng cống hiến và tinh thần trách nhiệm với Tổ quốc. Đây chính là nền tảng vững chắc để dân tộc Việt Nam viết tiếp những trang sử mới.

   Việt Nam không chỉ là một quốc gia độc lập, tự chủ mà còn là điểm sáng về tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị và hội nhập quốc tế, là đối tác tin cậy của bạn bè năm châu. Thành quả đó là kết tinh của sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, tinh thần đoàn kết toàn dân, và quyết tâm đổi mới, sáng tạo không ngừng. Đồng thời cũng là sự thẳng thắn nhìn nhận những hạn chế, tồn tại để điều chỉnh kịp thời, có những giải pháp phù hợp và tính toán từng bước đi thấu đáo, kỹ lưỡng hơn.

   Cùng nhìn lại chặng đường 80 năm, có thể khẳng định: Hành trình 80 năm ấy là minh chứng hùng hồn cho những chân lý như tinh thần đoàn kết dân tộc, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước, sự ủng hộ, nhất trí một lòng của toàn dân…. Và 80 năm qua là hành trình tuy nhiều gian khổ nhưng rạng rỡ của dân tộc Việt Nam. Từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, Việt Nam đã vươn lên trở thành quốc gia độc lập, có vị thế và uy tín trên trường quốc tế.

Kinh tế – Xã hội

– Tăng trưởng GDP giai đoạn 1986–2023 bình quân 6,5%/năm, đưa Việt Nam từ nước nghèo thành quốc gia thu nhập trung bình.

– Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58% (1993) xuống dưới 3% (2023).

– Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 100 USD (1986) lên 4.200 USD (2024).

– Tuổi thọ trung bình tăng từ 65 (1990) lên 74,5 tuổi (2024).

– Giáo dục phổ cập tiểu học gần 100%, tỷ lệ biết chữ độ tuổi 15–60 đạt trên 95%.

Đổi mới thể chế và cải cách hành chính

– Từ 1986: chuyển sang kinh tế thị trường định hướng XHCN; kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng → hơn 900.000 doanh nghiệp hoạt động vào 2024.

– Cải cách hành chính, tinh giản bộ máy, bỏ cấp trung gian ở một số nơi.

– Từ 2025: áp dụng mô hình chính quyền hai cấp, rút ngắn xử lý công việc, phục vụ dân – doanh nghiệp hiệu quả hơn.

Chuyển đổi số

– Triển khai Chính phủ số – Kinh tế số – Xã hội số – Bình dân học vụ số.

– Kết nối đồng bộ cơ sở dữ liệu quốc gia (dân cư, đất đai, bảo hiểm).

– Phổ cập kỹ năng số, minh bạch hóa quy trình, hình thành ngành kinh tế số mới.

Hội nhập quốc tế

– Tham gia nhiều FTA thế hệ mới (CPTPP, EVFTA, RCEP).

– Kim ngạch xuất khẩu 2024 đạt 350 tỷ USD, Việt Nam thuộc top 20 nền kinh tế thương mại lớn nhất thế giới.

– Thành viên tích cực của LHQ, ASEAN, WTO…, thiết lập quan hệ với 193/193 quốc gia thành viên LHQ.

– Hai lần được bầu làm Ủy viên HĐBA LHQ (2008–2009, 2020–2021).

– Nhiều sự kiện quốc tế lớn được đăng cai: APEC 2006, 2017; Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ – Triều 2019; SEA Games 2003, 2021.

Khoa học – Công nghệ và đổi mới sáng tạo

– Xây dựng khu công nghệ cao, trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia.

– Phát triển mạnh công nghiệp điện tử, phần mềm, năng lượng tái tạo, sinh học.

Giáo dục – Y tế

– Xã hội hóa dịch vụ, khu vực tư nhân tham gia mạnh.

– Bảo hiểm y tế toàn dân được mở rộng.

Phát triển bền vững, ứng phó biến đổi khí hậu

– Cam kết phát thải ròng bằng “0” vào 2050.

– Đầu tư điện gió, điện mặt trời; tăng diện tích rừng, bảo vệ hệ sinh thái biển.

Có thể nói, ngọn lửa của mùa Thu 1945 như ngọn đuốc dẫn đường, vẫn luôn cháy sáng và vẫn sẽ là nguồn động lực thôi thúc mỗi người dân Việt Nam tiếp tục đoàn kết, sáng tạo, phát huy trí tuệ và bản lĩnh để bảo vệ vững chắc chủ quyền, xây dựng đất nước phồn vinh, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho mọi người.

Đó không chỉ là mục tiêu, mà còn là lời ước hẹn, hành động tri ân với những bậc cha anh đã cống hiến và hy sinh để có một nước Việt Nam dân chủ cộng hòa độc lập, tự do, hạnh phúc; sự kế thừa, tiếp nối với những bậc tiền nhân đã có công dựng xây và bảo vệ nền độc lập, chủ quyền của dân tộc Việt Nam. Đó cũng là lời cam kết với hiện tại và tương lai, khi mỗi người dân Việt Nam ngày càng tin tưởng rằng: Đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam sẽ ngày càng phát triển, tiếp tục vươn xa, và tự hảo giữa năm châu bốn biển với nền độc lập – tự do – hạnh phúc cho tất cả mọi người.

Hải Phong (T/h)

Bài viết liên quan

ảnh 5

Ninh Bình: 2 phút giông lốc – Người dân kể lại giây phút đối mặt với tử thần

a1

Xây dựng cơ chế liên ngành nhằm giám sát hoạt động quảng cáo của nghệ sĩ

mỹ phẩm

Luật Quảng cáo- công cụ quan trọng trong quản lý mỹ phẩm và bảo vệ người tiêu dùng

Bà Vũ Thị Hường, Thạc sĩ chuyên ngành Công tác xã hội phổ biến Luật Hôn nhân và Gia đình; Luật Phòng chống bạo lực gia đình

Tuyên truyền Luật Hôn nhân, Gia đình và phòng chống bạo lực cho người khuyết tật

z6937005155927_1330ca966204acb1b4501332bceaf3be

Tổng hợp luyện A80 lần 1 tại Quảng trường Ba Đình tối 21/8: Không khí trang nghiêm và hào hùng

Các đại biểu dự Hội nghị sơ kết công tác 6 tháng đầu năm 2025, đề ra phương hướng nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm

Hội Người khuyết tật Hà Nam sơ kết công tác 6 tháng đầu năm 2025

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang