(ĐHVO). Hiện tỉnh Tuyên Quang có trên 21 ngàn Người khuyết tật (NKT), trong đó có trên 10,3 ngàn người đang hưởng trợ cấp xã hội tại cộng đồng, chiếm 43% đối tượng bảo trợ xã hội. Ngoài ra, NKT trong tỉnh còn được hỗ trợ về nhà ở, giáo dục, y tế, tiếp cận giao thông và các công trình xây dựng; được hỗ trợ dạy nghề, việc làm, vay vốn ưu đãi để làm kinh tế và hỗ trợ sinh kế…
Thực hiện Quyết định số 1190/QĐ-Ttg ngày 05/8/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình trợ giúp NKT giai đoạn 2021-2030; Thực hiện Kế hoạch số 389-KH/TU ngày 12/5/2020 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về thực hiện Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 01/11/2019 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác NKT, ngày 30/1/2021, UBND tỉnh Tuyên Quang đã ban hành Kế hoạch số 16/KH-UBND về thực hiện Chương trình trợ giúp người khuyết tật (NKT) giai đoạn 2021 – 2030 trên địa bàn tỉnh.
Kế hoạch số 16/KH-UBND ra đời nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống của NKT; tạo điều kiện để NKT tham gia bình đẳng vào các hoạt động của xã hội; xây dựng môi trường không rào cản bảo đảm quyền lợi hợp pháp của NKT và hỗ trợ NKT phát huy khả năng của mình, từng bước tạo điều kiện thuận lợi cho NKT tham gia bình đẳng vào các hoạt động xã hội trên tất cả các lĩnh vực, góp phần đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh.
Cụ thể, giai đoạn 2021 – 2025: Hằng năm, có khoảng 80% NKT tiếp cận các dịch vụ y tế dưới các hình thức khác nhau; 90% trẻ em từ sơ sinh đến 6 tuổi được sàng lọc phát hiện sớm khuyết tật bẩm sinh, rối loạn phát triển và được can thiệp sớm các dạng khuyết tật; khoảng 400 trẻ em và NKT được phẫu thuật chỉnh hình, phục hồi chức năng và cung cấp dụng cụ trợ giúp phù hợp.
Phấn đấu 80% trẻ khuyết tật ở độ tuổi mầm non và phổ thông được tiếp cận giáo dục; có khoảng 200 NKT có nhu cầu và đủ điều kiện được hỗ trợ đào tạo nghề, tạo việc làm; 90% NKT có nhu cầu và đủ điều kiện được vay vốn với lãi suất ưu đãi theo quy định.
Có 80% công trình xây mới và 30% công trình cũ là trụ sở làm việc của cơ quan nhà nước; bến xe, bến tàu; cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; cơ sở giáo dục, dạy nghề, công trình văn hóa, thể dục thể thao; nhà chung cư xây mới bảo đảm điều kiện tiếp cận đối với NKT.
80% NKT có nhu cầu tham gia giao thông được sử dụng phương tiện giao thông đảm bảo quy chuẩn kỹ thuật về giao thông tiếp cận hoặc dịch vụ trợ giúp tương đương; 100 NKT tham gia giao thông đối với các tuyến đường bộ nội tỉnh được miễn, giảm giá vé theo quy định; NKT tham gia giao thông đối với các tuyến đường bộ liên tỉnh được miễn, giảm giá vé 50%.
10% NKT được hỗ trợ tham gia các hoạt động văn hóa, nghệ thuật và biểu diễn nghệ thuật.
60% cán bộ làm công tác trợ giúp NKT được tập huấn, nâng cao năng lực quản lý, chăm sóc, hỗ trợ NKT; 30% gia đình có NKT được tập huấn về kỹ năng, phương pháp chăm sóc phục hồi chức năng cho NKT; 20% NKT được tập huấn các kỹ năng sống.
80% phụ nữ khuyết tật được trợ giúp dưới nhiều hình thức khác nhau.
Giai đoạn 2026 – 2030: Hằng năm, có khoảng 90% NKT tiếp cận các dịch vụ y tế dưới các hình thức khác nhau; 90% trẻ em từ sơ sinh đến 6 tuổi được sàng lọc phát hiện sớm khuyết tật bẩm sinh, rối loạn phát triển và được can thiệp sớm các dạng khuyết tật; khoảng 600 trẻ em và NKT được phẫu thuật chỉnh hình, phục hồi chức năng và cung cấp dụng cụ trợ giúp phù hợp. 90% trẻ khuyết tật ở độ tuổi mầm non và phổ thông được tiếp cận giáo dục; phấn đấu 100% phụ nữ khuyết tật được trợ giúp dưới các hình thức khác nhau. Khoảng 300 NKT có nhu cầu và đủ điều kiện được hỗ trợ đào tạo nghề, tạo việc làm; 100% NKT có nhu cầu và đủ điều kiện được vay vốn với lãi suất ưu đãi theo quy định. 100% NKT có khó khăn về tài chính được cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý khi có nhu cầu. Tiếp tục duy trì hoạt động của Hội Bảo trợ bệnh nhân nghèo, NKT và trẻ mồ côi tỉnh…
Kinh phí thực hiện được bố trí trong dự toán chi thường xuyên hằng năm của các đơn vị; kinh phí lồng ghép từ các Chương trình mục tiêu, các chương trình đề án liên quan để thực hiện các hoạt động của Kế hoạch theo phân cấp quản lý và huy động từ sự đóng góp, hỗ trợ của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
Đại diện hội bảo trợ NKT và trẻ em mồ côi tỉnh tặng xe lăn cho NKT tại xã Tràng Đà (TP. Tuyên Quang)
Để đạt được mục tiêu đã đề ra, tỉnh Tuyên Quang thường xuyên tuyên truyền, phổ biến đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tạo chuyển biến sâu sắc về nhận thức, trách nhiệm trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân về công tác trợ giúp NKT, gắn với việc tổ chức thực hiện có hiệu quả các văn bản pháp luật có liên quan, trọng tâm là Luật NKT và Công ước của Liên hợp quốc về quyền của NKT. Theo đó, các ngành chức năng trong tỉnh tăng cường các hoạt động trợ giúp NKT trên các lĩnh vực y tế, giáo dục nghề nghiệp, tạo việc làm và hỗ trợ sinh kế…
Ngoài ra, tỉnh còn chú trọng đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động trợ giúp NKT; nâng cao trách nhiệm của toàn xã hội trong việc chăm lo, giúp đỡ NKT và các tổ chức của NKT; vận động nguồn lực xã hội hỗ trợ cuộc sống NKT và các tổ chức của NKT.
Tuấn Hà