Trẻ bị bệnh tim bẩm sinh có được xác định là trẻ em khuyết tật?

(ĐHVO). Bệnh tim bẩm sinh là một căn bệnh nguy hiểm, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và tinh thần của người bệnh. Vậy khi mắc bệnh tim bẩm sinh, người bệnh có được coi là người khuyết tật? Đây là câu hỏi thắc mắc của rất nhiều người, bài viết dưới đây sẽ phần nào giải đáp băn khoăn ấy.

Bạn đọc hỏi: Xin chào, con tôi là cháu A, được chuẩn đoán bị bệnh tim bẩm sinh từ lúc 6 tháng tuổi. Hiện tại, sức khỏe của cháu khá yếu, gia đình đã cố gắng chạy chữa nên tài chính đã gần cạn kiệt. Vậy cho tôi hỏi với tình trạng như thế thì cháu A có được coi là trẻ em khuyết tật hay không. Tôi xin cảm ơn.

Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)

Trả lời:

Th.S LS Nguyễn Thị Hồng Liên – Thành viên Trung tâm trợ giúp pháp lý Đồng Hành Việt đưa ra ý kiến giải đáp vấn đề trên như sau:

Theo quy định của pháp luật hiện hành, tuy chưa có quy định nào quy định cụ thể rằng người bị bệnh tim bẩm sinh có được coi là người khuyết tật, nhưng người bị bệnh tim bẩm sinh vẫn có thể được xác định là người khuyết tật và được hưởng các chế độ của người khuyết tật. Cụ thể:

Căn cứ theo Khoản 1 Điều 2 Luật Người Khuyết tật 2010, người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn.

Các dạng khuyết tật

Theo Điều 2 Nghị định 28/2012/NĐ-CP quy định về các dạng khuyết tật, bao gồm:

Khuyết tật vận động là tình trạng giảm hoặc mất chức năng cử động đầu, cổ, chân, tay, thân mình dẫn đến hạn chế trong vận động, di chuyển.

Khuyết tật nghe, nói là tình trạng giảm hoặc mất chức năng nghe, nói hoặc cả nghe và nói, phát âm thành tiếng và câu rõ ràng dẫn đến hạn chế trong giao tiếp, trao đổi thông tin bằng lời nói.

Khuyết tật nhìn là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhìn và cảm nhận ánh sáng, màu sắc, hình ảnh, sự vật trong điều kiện ánh sáng và môi trường bình thường.

Khuyết tật thần kinh, tâm thần là tình trạng rối loạn tri giác, trí nhớ, cảm xúc, kiểm soát hành vi, suy nghĩ và có biểu hiện với những lời nói, hành động bất thường.

Khuyết tật trí tuệ là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhận thức, tư duy biểu hiện bằng việc chậm hoặc không thể suy nghĩ, phân tích về sự vật, hiện tượng, giải quyết sự việc.

Khuyết tật khác là tình trạng giảm hoặc mất những chức năng cơ thể khiến cho hoạt động lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn mà không thuộc các trường hợp trên.

Mức độ khuyết tật

– Trách nhiệm xác định mức độ khuyết tật:

+ Việc xác định mức độ khuyết tật do Hội đồng xác định mức độ khuyết tật thực hiện.

+ Trong các trường hợp sau đây thì việc xác định mức độ khuyết tật do Hội đồng giám định y khoa thực hiện:

  • Hội đồng xác định mức độ khuyết tật không đưa ra được kết luận về mức độ khuyết tật;
  • Người khuyết tật hoặc đại diện hợp pháp của người khuyết tật không đồng ý với kết luận của Hội đồng xác định mức độ khuyết tật;
  • Có bằng chứng xác thực về việc xác định mức độ khuyết tật của Hội đồng xác định mức độ khuyết tật không khách quan, chính xác.

+ Trường hợp đã có kết luận của Hội đồng giám định y khoa về khả năng tự phục vụ, mức độ suy giảm khả năng lao động thì việc xác định mức độ khuyết tật theo quy định của Chính phủ.

Như vậy, để biết được một người có phải người khuyết tật hay không cần phải dựa vào kết luận của Hội đồng xác định mức độ khuyết tật hoặc Hội đồng giám định y khoa.

– Có 3 mức độ khuyết tật theo quy định của pháp luật:

+ Người khuyết tật đặc biệt nặng là những người do khuyết tật dẫn đến mất hoàn toàn chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được các hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc hoàn toàn.

+ Người khuyết tật nặng là những người do khuyết tật dẫn đến mất một phần hoặc suy giảm chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được một số hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc.

+ Người khuyết tật nhẹ là người khuyết tật không phải người khuyết tật nặng và đặc biệt nặng.

Thủ tục xác định mức độ khuyết tật

– Khi có nhu cầu xác định mức độ khuyết tật, người khuyết tật hoặc người đại diện hợp pháp của người khuyết tật gửi đơn đến UBND cấp xã nơi người khuyết tật cư trú.

– Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận đơn đề nghị xác định mức độ khuyết tật, Chủ tịch UBND cấp xã có trách nhiệm triệu tập Hội đồng xác định mức độ khuyết tật, gửi thông báo về thời gian xác định mức độ khuyết tật cho người khuyết tật hoặc người đại diện hợp pháp của họ.

– Hội đồng xác định mức độ khuyết tật tổ chức việc xác định mức độ khuyết tật, lập hồ sơ xác định mức độ khuyết tật và ra kết luận.

Phương pháp xác định mức độ khuyết tật: Quan sát trực tiếp người khuyết tật, thông qua thực hiện hoạt động đơn giản phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày, sử dụng bộ câu hỏi theo các tiêu chí về y tế, xã hội và các phương pháp đơn giản khác để kết luận mức độ khuyết tật đối với từng người khuyết tật.

– Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày có kết luận của Hội đồng xác định mức độ khuyết tật, Chủ tịch UBND cấp xã niêm yết và thông báo công khai kết luận của Hội đồng xác định mức độ khuyết tật và cấp giấy xác nhận khuyết tật.

Hồ sơ đề nghị xác nhận mức độ khuyết tật

– Đơn đề nghị xác định mức độ khuyết tật: theo Mẫu số 01 ban hành kèm theo Thông tư 01/2019/TT-BLĐTBXH

– Bản sao các giấy tờ liên quan đến khuyết tật (nếu có) như: bệnh án, giấy tờ khám, điều trị, phẫu thuật, Giấy xác nhận khuyết tật cũ và các giấy tờ có liên quan khác.

– Bản sao kết luận của Hội đồng Giám định y khoa về khả năng tự phục vụ, mức độ suy giảm khả năng lao động đối với trường hợp người khuyết tật đã có kết luận của Hội đồng Giám định y khoa trước ngày Nghị định số 28/2012/NĐ-CP có hiệu lực hoặc các giấy tờ liên quan khác (nếu có).

Trợ cấp xã hội và hỗ trợ chi phí chăm sóc hàng tháng

(1) Đối tượng được nhận trợ cấp xã hội hàng tháng bao gồm:

– Người khuyết tật đặc biệt nặng, trừ trường hợp người khuyết tật được nuôi dưỡng trong cơ sở bảo trợ xã hội

– Người khuyết tật nặng

(2) Đối tượng được hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng bao gồm:

– Gia đình có người khuyết tật đặc biệt nặng đang trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc người đó;

– Người nhận nuôi dưỡng, chăm sóc người khuyết tật đặc biệt nặng;

– Người khuyết tật nặng, đặc biệt nặng đang mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi.

Lưu ý: Người khuyết tật là đối tượng được nhận trợ cấp xã hội hàng tháng là trẻ em, người cao tuổi được hưởng mức trợ cấp cao hơn đối tượng khác cùng mức độ khuyết tật.

Như vậy, khi quy định về các dạng khuyết tật, Nghị định 28/2012/NĐ-CP đã dành ra một khoản mở để có thể bao quát hết được tất cả các dạng khuyết tật tồn tại trong đời sống, nhằm đảm bảo đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của tất cả người khuyết tật, những người vốn dĩ đã yếu thế hơn các chủ thể khác trong xã hội; cụ thể đó là Khoản 6 Điều 2: “Khuyết tật khác là tình trạng giảm hoặc mất những chức năng cơ thể khiến cho hoạt động lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn mà không thuộc các trường hợp được quy định tại các Khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều này.” (Các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều này bao gồm: khuyết tật vận động; khuyết tật nghe, nói; khuyết tật nhìn; khuyết tật thần kinh, tâm thần; khuyết tật trí tuệ).

Trong trường hợp của cháu A, tuy bệnh tim bẩm sinh chưa được quy định cụ thể thành một dạng khuyết tật, nhưng có thể xếp vào dạng khuyết tật khác, khi đó là một căn bệnh nguy hiểm khiến cho chức năng của tim bị suy giảm, ảnh hưởng lớn đến sinh hoạt đời sống cũng như quá trình học tập của cháu A.

Tuy nhiên, để được cơ quan có thẩm quyền xác nhận mức độ khuyết tật của cháu A, gia đình cần phải thực hiện thủ tục đề nghị xác nhận mức độ khuyết tật với hồ sơ gồm các giấy tờ bên trên và nộp tại UBND cấp xã nơi người khuyết tật cư trú; sau đó Chủ tịch UBND cấp xã thành lập Hội đồng xác định mức độ khuyết tật để tổ chức xác nhận và kết luận; niêm yết và thông báo công khai kết luận của Hội đồng xác định mức độ khuyết tật và cấp giấy xác nhận khuyết tật. Nếu cháu A được xác định là người khuyết tật nặng hoặc đặc biệt nặng thì cháu sẽ được nhận trợ cấp xã hội hàng tháng và gia đình cũng được nhận hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng.

Nguyễn Hoa

Bài viết liên quan

Picture6

Hải Phòng: Lễ biểu dương 139 học sinh,sinh viên tiêu biểu xuất sắc của Thành phố năm 20

Picture2

Thành phố Nam Định hình thành 3 vùng phát triển sau sáp nhập

Picture2

Tạp chí Lao động và Sáng tạo trao 1.000 suất quà đến người dân Lào Cai bị ảnh hưởng do cơn bão số 3

NGƯỜI KHUYẾT TẬT ĐỆ ĐƠN XIN TRỢ GIÚP PHÁP LÝ

Đoàn luật sư thành phố Hà Nội hưởng ứng tham gia ủng hộ Quỹ “Vì biển, đảo Việt Nam” thành phố Hà Nội năm 2024

Picture1

Thái Nguyên: Nhiều hoạt động thiết thực, ý nghĩa nhân Ngày Người khuyết tật Việt Nam 18/4

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang