Trách nhiệm của người sử dụng lao động về vấn đề việc làm đối với người khuyết tật?

(DHVO). Trong xã hội ngày nay, để tìm được công việc phù hợp và ổn định không phải là chuyện dễ. Người bình thường tìm việc làm đã khó, người khuyết tật tìm việc làm lại càng khó hơn. Hành lang pháp lý của nhà nước dành cho người khuyết tật trương đối đầy đủ như: chính sách ưu đãi, hỗ trợ vốn, ưu tiên cấp địa điểm thuận lợi, đầu tư kỹ thuật công nghệ… Chính sách ban hành nhằm khuyến khích doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động sử dụng lao động là người khuyết tật. Vậy trách nhiệm của người sử dụng lao động là gì trong việc tiếp nhận người khuyết tật vào làm việc tại cơ quan, tổ chức, đơn vị của mình? Đồng thời tạo điều kiện cho người khuyết tật trong quá trình làm việc?

Trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong việc giải quyết, hỗ trợ việc làm đối với người khuyết tật được quy định tại Khoản 2, 3 và 4 Điều 33 Luật người khuyết tật.

“2. Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân không được từ chối tuyển dụng người khuyết tật có đủ tiêu chuẩn tuyển dụng vào làm việc hoặc đặt ra tiêu chuẩn tuyển dụng trái quy định của pháp luật nhằm hạn chế cơ hội làm việc của người khuyết tật.

3. Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động là người khuyết tật tùy theo điều kiện cụ thể bố trí sắp xếp công việc, bảo đảm điều kiện và môi trường làm việc phù hợp cho người khuyết tật.

4. Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động là người khuyết tật phải thực hiện đầy đủ quy định của pháp luật về lao động đối với lao động là người khuyết tật”

Việc làm đối với người khuyết tật

minh họa – Nguồn Internet

Trách nhiệm của NSDLĐ trong việc tiếp nhận, tuyển dụng người lao động là người khuyết tật

Giải quyết việc làm cho người khuyết tật không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội. Các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân vì vậy cũng có trách nhiệm giải quyết việc làm cho người lao động trong đó có người khuyết tật. Đặc biệt, người khuyết tật là đối tượng lao động đặc thù nên các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp các nhân càng cần phải có sự quan tâm đến đối tượng này nhằm đảm bảo cho họ được bình đẳng như những người lao động khác mà không bị phân biệt đối xử. Để tránh tình trạng kì thị, phân biệt đối xử, tạo ra những rào cản dẫn đén sự hạn chế cơ hội có việc làm của người khuyết tật, Luật người khuyết tật quy định các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp các nhân không được từ chối tuyển dụng người khuyết tật có đủ tiêu chuẩn tuyển dụng vào làm việc hoặc đặt ra tiêu chuẩn tuyển dụng trái quy định của pháp luật nhằm hạn chế cơ hội việc làm cho người khuyết tật. Việc nới lỏng những yêu cầu tuyển dụng đối với người khuyết tật không chỉ có ý nghĩa xã hội rất to lớn mà còn giúp các doanh nghiệp có thể có được những người lao động tuy là người khuyết tật nhưng làm việc hiệu quả vì trên thực tế có rất nhiều người khuyết tật có một trình độ học vấn cao hoặc có khả năng đặc biệt trong nhiều lĩnh vực cụ thể; họ cũng là những người có trách nhiệm và nỗ lực hòa thành công việc của mình.

Về phía doanh nghiệp, cùng với quyền tuyển chọn, tăng giảm lao động là người khuyết tật cho phù hợp với nhu cầu sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cũng có trách nhiệm đảm bảo việc làm cho người lao động theo thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động, phải nhận tỉ lệ lao động tàn tật nhất định (Khoản 3 Điều 125 Bộ luật lao động). Cụ thể các doanh nghiệp thuộc ngành sản xuất điện năng, luyện kim, hóa chất, địa chất, đo đạc bản đồ, dầu khí, khai thác mỏ, khai thác khoáng sản, xây dựng cơ bản, vận tải phải nhận 2% lao động là người khuyết tật; doanh nghiệp của các ngành khác là 3%. Tỉ lệ người tàn tật các doanh nghiệp phải tiếp nhận là tỉ số giữa số người tàn tật so với tổng số lao động có mặt bình quân tháng của doanh nghiệp. Trường hợp nếu doanh nghiệp không nhận hoặc nhận ít hơn tỉ lệ quy định thì phải đóng góp một khoản tiền theo quy định của Chính phủ vào quỹ việc làm để góp phần giải quyết việc làm cho người tàn tật. Cụ thể  nếu doanh nghiệp tiếp nhận số lao động là người khuyết tật vào làm thấp hơn tỉ lệ quy định thì hàng tháng phải nộp vào Quỹ việc làm cho người tàn tật một khoản tiền bằng mức tiền lương tối thiểu hiện hành do Nhà nước quy định nhân với số lao động là người tàn tật mà doanh nghiệp cần phải nhận thêm để đủ tỉ lệ quy định.

 

Việc làm đối với NKT

minh họa – Nguồn internet

Vai trò của NSDLĐ là vô cùng quan trọng. Nó góp phần hỗ trợ người khuyết tật có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ công việc của mình. Mặc dù khi tuyển dụng vào doanh nghiệp thì người khuyết tật đã được xem xét đến mức độ phù hợp với vị trí công việc tuy nhiên NSDLĐ vẫn cần tạo điều kiện hỗ trợ để người lao động thích nghi như: sắp xếp chỗ ngồi làm việc phù hợp, sắp xếp thời gian làm việc linh động, có chế độ khuyến khích, khích lệ lao động… Pháp luật tuy không quy định cụ thể trách nhiệm của NSDLĐ trong quá trình người khuyết tật làm việc trong doanh nghiệp tuy nhiên nếu NSDLĐ thực hiện các chính sách ưu đãi vừa mang lại hiệu quả công việc cho chính doanh nghiệp mà còn tạo điều kiện cho người khuyết tật hoà nhập, tự tin hoàn thành tốt công việc của mình. Điều này có ý nghĩa xã hội rất lớn, không chỉ đối với cá nhân người khuyết tật mà còn đối với toàn xã hội.

Nam Phương

Bài viết liên quan

Picture6

Hải Phòng: Lễ biểu dương 139 học sinh,sinh viên tiêu biểu xuất sắc của Thành phố năm 20

Picture2

Thành phố Nam Định hình thành 3 vùng phát triển sau sáp nhập

Picture2

Tạp chí Lao động và Sáng tạo trao 1.000 suất quà đến người dân Lào Cai bị ảnh hưởng do cơn bão số 3

NGƯỜI KHUYẾT TẬT ĐỆ ĐƠN XIN TRỢ GIÚP PHÁP LÝ

Đoàn luật sư thành phố Hà Nội hưởng ứng tham gia ủng hộ Quỹ “Vì biển, đảo Việt Nam” thành phố Hà Nội năm 2024

Picture1

Thái Nguyên: Nhiều hoạt động thiết thực, ý nghĩa nhân Ngày Người khuyết tật Việt Nam 18/4

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang