Tổ chức của người khuyết tật và vai trò nòng cốt không thể thiếu cho một xã hội hòa nhập

Trong tiến trình xây dựng một xã hội công bằng và nhân văn, nhất là trong kỷ nguyên mới của dân tộc, Đảng và Nhà nước luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến người khuyết tật (NKT). Hệ thống chính sách, pháp luật ngày càng toàn diện, đồng bộ, đáp ứng đầy đủ và kịp thời cùng sự phát triển của xã hội. Từ Pháp lệnh Người Tàn tật (1998), Luật Người khuyết tật (2010), phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về Quyền của Người khuyết tật (2014), đến các đề án, kế hoạch hành động cụ thể, đặc biệt là Chỉ thị (1989,2019) của Đảng cùng Hiến pháp (từ Hiến pháp 1946 đến nay) – Luật cơ bản nhất, có hiệu lực pháp lý cao nhất đều hướng tới mục tiêu bảo đảm quyền và tạo điều kiện để hơn 6 triệu NKT Việt Nam (theo VDS2023) có thể sống độc lập, hòa nhập và phát triển.

Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, dù chính sách tốt đến đâu cũng khó có thể được phát huy tối đa hiệu quả nếu thiếu một cơ chế chuyển tải mạnh mẽ và sát sườn với cuộc sống. Khoảng cách giữa quy định và thực tế, giữa nhu cầu và sự hỗ trợ… chỉ có thể được thu hẹp hiệu quả thông qua một tổ chức đại diện tin cậy của chính NKT ngay tại cơ sở. Điều này càng trở nên cấp thiết trong bối cảnh chính quyền đang được tinh gọn theo mô hình hai cấp (tỉnh/thành phố và phường/xã) và giai đoạn chuyển đổi số. Sự tinh giản bộ máy hành chính cũng như chuyển đổi số đòi hỏi tính chủ động và khả năng bao quát cao hơn của chính quyền cơ sở, cũng như khả năng thích ứng của NKT. Do đó, đồng thời cũng có thể “tiềm ẩn nguy cơ đứt gãy kết nối” với các nhóm yếu thế như NKT. Trong bối cảnh đó, tổ chức của NKT đặc biệt là cấp xã/phường càng như một mắt xích quan trọng, một “cơ chế hiện thực hóa chính sách” không thể thiếu.

Ảnh minh họa – Nguồn DP Hà Nội

Vai trò không thể thay thế của tổ chức NKT cấp cơ sở

Các tổ chức của NKT, đặc biệt tại xã, phường không đơn thuần là một nhóm tập hợp. Theo bà Đỗ Thị Huyền – Phó Chủ tịch Liên hiệp hội về Người khuyết tật Việt Nam, Chủ tịch Hội người khuyết tật thành phố Hà Nội cho biết: “Việc thúc đẩy sự ra đời của Hội Người khuyết tật cấp xã/phường không chỉ mở thêm một cánh cửa đại diện tiếng nói của người khuyết tật, mà còn là tạo dựng một ‘mái nhà chung’ ngay tại cộng đồng – nơi mỗi người có thể tìm thấy sự hỗ trợ, sự thấu hiểu và cơ hội tham gia vào đời sống xã hội một cách thực sự…”

Có thể thấy, vai trò của “Mái nhà chung” ấy thực hiện những chức năng vô cùng quan trọng:

Một là, “cầu nối” hai chiều đáng tin cậy: Vừa phản ánh trung thực nguyện vọng, hoàn cảnh của NKT lên chính quyền; vừa chuyển tải, giải thích và hỗ trợ triển khai chính sách từ trên xuống một cách phù hợp với thực tế địa phương. Trong mô hình chính quyền hai cấp tinh gọn và giai đoạn chuyển đổi số mạnh mẽ, Hội càng trở thành “hệ thống thông tin – phản hồi” nhạy bén, giúp chính quyền cơ sở nắm bắt tình hình chính xác để ra quyết định sát thực tế cũng như hỗ trợ công tác chuyển đổi số hiệu quả…

Hai là, “trung tâm dịch vụ” tại chỗ: Cung cấp hỗ trợ thiết thực từ tư vấn pháp lý, kết nối việc làm, dạy nghề, hỗ trợ tâm lý đến kết nối các dịch vụ y tế, phục hồi chức năng… Nhiều nơi, Hội còn trực tiếp tham gia hỗ trợ rà soát hồ sơ, tổ chức tập huấn, giảm tải đáng kể cho bộ máy hành chính.

Ba là, “hạt nhân thay đổi” nhận thức: Thúc đẩy sự tham gia của NKT; nâng cao năng lực cho NKT; Tích cực truyền thông để giảm kỳ thị, nâng cao nhận thức cộng đồng về quyền năng và khả năng đóng góp của NKT, tạo môi trường xã hội hòa nhập một cách bình đẳng và đầy đủ.

Bốn là, địa chỉ tin cậy để đồng hành và bảo vệ quyền lợi: Có thể nói, tổ chức của NKT là một trong những người bạn, người đồng hành đáng tin cậy nhất của NKT ngay tại cộng đồng. Tổ chức này đóng vai trò thiết yếu trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho hội viên, đồng thời là kênh quan trọng để tập hợp ý kiến, góp ý xây dựng, sửa đổi và bổ sung các chính sách, pháp luật liên quan đến NKT, đảm bảo tiếng nói của họ được lắng nghe từ gốc rễ.

Năm là, không gian chia sẻ và hỗ trợ đồng cảnh: Trên hết, tổ chức của NKT là một không gian ấm áp của sự sẻ chia và đồng cảnh. Đây là nơi NKT có thể gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm, hỗ trợ lẫn nhau vượt qua khó khăn và cùng chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn, thành công trong cuộc sống, từ đó xây dựng mạng lưới hỗ trợ xã hội bền chặt và giàu sức mạnh tinh thần. Đặc biệt, chính trong môi trường đồng cảnh này, năng lực của NKT được bồi đắp một cách tự nhiên và hiệu quả nhất. Không ở đâu có thể đào tạo, nâng cao kỹ năng sống, kỹ năng xã hội hay năng lực tự đại diện cho NKT tốt hơn chính tổ chức của họ – nơi mỗi thành viên hiểu nhau, truyền cảm hứng cho nhau, và cùng nhau tăng cường sự chủ động, tự tin để hòa nhập toàn diện vào cộng đồng.

Sự cần thiết được chứng minh bằng kết quả thực tế

Tổ chức NKT Hà Nội năm 2025 là một minh chứng khá rõ nét trong việc khẳng định vai trò đại diện và hỗ trợ người khuyết tật cũng như sự cần thiết cho một xã hội hòa nhập và không để ai bị bỏ lại phía sau:

– Hội đã duy trì mạng lưới vững mạnh với 30 Chi hội liên xã/phường, tổ chức tập huấn cho gần 1.000 lượt cán bộ, hội viên, giúp nâng cao năng lực và trao quyền ngay tại cộng đồng. Hội tham gia góp ý sửa đổi Hiến pháp, các chính sách lớn và có đại diện vào Ủy ban MTTQ TP, khẳng định tiếng nói của NKT trong hệ thống chính trị.

– Nhiều hoạt động truyền thông – cộng đồng được tổ chức rộng khắp, trong đó nổi bật là hơn 4.430 suất quà cho NKT dịp 18/4, cùng các chương trình văn hóa, thể thao và nghệ thuật hòa nhập tạo môi trường đồng cảnh tích cực. Về sinh kế, Hội phối hợp tổ chức 2 hội chợ việc làm, dạy nghề, ký kết hợp tác với doanh nghiệp, giúp nhiều hội viên có việc làm và tự chủ hơn.

– Đặc biệt, sáng kiến của Hội được trao Zero Project Awards 2026 tại Liên Hợp Quốc, và đại diện Hội điều hành phiên họp của APDF, khẳng định uy tín quốc tế của tổ chức. Những kết quả này cho thấy tổ chức NKT chính là “mái nhà chung” – nơi chính sách được triển khai hiệu quả, năng lực được nâng lên và NKT được trao quyền để hòa nhập toàn diện.

Từ kinh nghiệm thực tế cho thấy một mối tương quan rõ rệt: “Ở đâu có tổ chức của NKT hoạt động hiệu quả, thì ở đó chính sách đến được với NKT đầy đủ và kịp thời hơn, đời sống NKT được cải thiện rõ rệt…” Sự hiện diện của tổ chức của NKT giúp các chương trình hỗ trợ (vay vốn, dạy nghề, cấp dụng cụ, trợ giúp pháp lý, truyền thông chính sách, pháp luật…) “đúng người, đúng nhu cầu”. Điều này được minh chứng qua những mô hình sinh kế bền vững, tỷ lệ NKT có việc làm tăng, và việc quản lý hiệu quả các nguồn lực hỗ trợ, sự tham gia của NKT vào xã hội và các lĩnh vực. Không ít trong số họ là những doanh nhân, nghệ nhân, vận động viên, nghệ sĩ tài năng, hay những cá nhân tiên phong trong hoạt động cộng đồng. Những thành công đó đã và đang đóng góp không chỉ làm giàu thêm cho xã hội, góp phần vào mục tiêu phát triển chung của đất nước… mà còn phá vỡ mọi định kiến, khẳng định NKT là một nguồn lực của cộng đồng khi được tạo cơ hội và môi trường thuận lợi thông qua chính tổ chức của mình.

Bên cạnh đó, cũng theo chia sẻ của bà Đỗ Thị Huyền: Việc thành lập tổ chức của người khuyết tật ở cấp xã/phường không chỉ là một bước tiến quan trọng trong việc xây dựng mạng lưới hỗ trợ và đại diện cho người khuyết tật trong cộng đồng, mà còn là thực hiện rõ cam kết quốc tế mà Chính phủ Việt Nam đã ký kết và tham gia. Việt Nam – cùng với các quốc gia trong khu vực – đã phê chuẩn và đang thực hiện Công ước Liên hiệp quốc về quyền của người khuyết tật, trong đó Công ước yêu cầu mỗi quốc gia “thực hiện, bảo vệ và đảm bảo quyền và sự tự do của người khuyết tật” một cách bình đẳng. Đồng thời, tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đang bước vào Thập kỷ người khuyết tật 2023-2032, với tuyên bố Jakarta, trong đó đề cập “Tăng cường sự tham gia ý nghĩa của người khuyết tật”. Vì vậy, việc thành lập Hội Người khuyết tật cấp xã/phường là một biểu hiện cụ thể của nguyên tắc “không ai bị bỏ lại phía sau” – nơi mà người khuyết tật có thể tham gia vào quá trình ra quyết định tại chính nơi mình sinh sống, thể hiện quyền được tham gia, quyền được có tiếng nói, quyền được tiếp cận bình đẳng và quyền được hỗ trợ để hiện thực hoá năng lực của mình. Đây chính là cách chúng ta góp phần hiện thực hoá Công ước Liên hiệp quốc về quyền của người khuyết tật: từ tầm quốc tế đến hành động tại địa phương, và cùng nhau thực hiện những mục tiêu của Thập kỷ người khuyết tật Châu Á-Thái Bình Dương 2023-2032 cho một xã hội hòa nhập thực sự.

Có thể thấy, khi có “mái nhà chung” vững chắc, NKT được trao quyền để chuyển từ vị thế thụ hưởng sang vị thế chủ thể tích cực của quá trình phát triển, như lời khẳng định của bà Huyền.

Ảnh minh họa – Nguồn DP Hà Nội

Hướng tới một cơ chế phối hợp bền vững và chủ động

Để phát huy tối đa vai trò “nòng cốt” của tổ chức của NKT nhất là cấp cơ sở, cần chuyển từ cách tiếp cận hỗ trợ từng phần sang xây dựng một cơ chế chính sách toàn diện, minh bạch và bền vững. Mục tiêu là tạo điều kiện để Hội NKT cấp cơ sở không chỉ ra đời mà còn hoạt động hiệu quả, tự chủ và trở thành đối tác tin cậy, góp phần làm trọn vẹn hiệu quả của mô hình chính quyền phục vụ Nhân dân. Điều này đòi hỏi những giải pháp đồng bộ, trước hết là thể chế hóa và tạo khuôn khổ pháp lý thông thoáng, hỗ trợ.

Cần sớm thể chế hóa cơ chế giữa UBND phường/xã với tổ chức của NKT thông qua các văn bản hướng dẫn cụ thể. Đi cùng với đó là việc xây dựng một cơ chế tài chính linh hoạt và sáng tạo, không chỉ dừng ở việc bố trí ngân sách hỗ trợ, mà quan trọng hơn là tạo “cơ chế thuận lợi” để tổ chức của NKT có thể tự tạo nguồn lực. Điều này cần được hiện thực hóa bằng các bước cụ thể như thành lập “đầu mối hỗ trợ một cửa” tại cấp tỉnh/thành phố để tư vấn, hướng dẫn trực tiếp các tổ chức của NKT cơ sở trong việc lập hồ sơ, thủ tục tham gia chương trình mục tiêu quốc gia hoặc tiếp cận dự án. 

Xây dựng “Danh mục dự án ưu tiên” và “Quy trình phối hợp rút gọn” dành riêng cho các tổ chức của NKT có năng lực, nhằm giảm thiểu thời gian và thủ tục hành chính không cần thiết (Ví dụ: dạy nghề, hỗ trợ sinh kế, trợ giúp pháp lý… cần có quy trình thẩm định và phê duyệt được tinh gọn, minh bạch, giúp các tổ chức của NKT có năng lực tiếp cận nguồn vốn nhà nước một cách nhanh chóng, giảm thiểu rào cản hành chính).

Đặc biệt, Nhà nước có thể đóng vai trò kết nối và bảo trợ pháp lý thông qua việc ký kết “Thỏa thuận khung hợp tác” với các tổ chức quốc tế (như UNDP, UNICEF, NGO…), trong đó dành riêng một cơ chế để các tổ chức của NKT được công nhận năng lực có thể trực tiếp đề xuất và tiếp nhận tài trợ cho các dự án nhỏ, thiết thực tại cộng đồng, với sự phối hợp và giám sát chặt chẽ để đảm bảo hiệu quả, minh bạch và an toàn.

Để những cơ chế trên vận hành trơn tru và lành mạnh, cần đi đôi với việc tăng cường minh bạch, giám sát và phát triển năng lực nội tại. Trước hết, cần xây dựng bộ tiêu chí và quy trình công nhận “Tổ chức của NKT đủ năng lực” để vừa tạo điều kiện, vừa quản lý hiệu quả. Các tổ chức khi thực hiện dự án phải tuân thủ cơ chế báo cáo và giám sát công khai, đồng thời được khuyến khích thông qua hình thức “đồng tài trợ” hoặc “đối ứng vốn” để nâng cao tính chủ động và bền vững.

Song song, phải tập trung phát triển nguồn nhân lực cho chính các tổ chức thông qua các khóa đào tạo chuyên sâu về quản trị dự án, tài chính, vận động quốc tế và hỗ trợ kết nối mạng lưới học hỏi kinh nghiệm, pháp luật… Đồng thời kết nối mạng lưới để mở rộng tầm nhìn và nâng cao năng lực thực tiễn cũng như chia sẻ và góp phần thực hiện hiệu quả hoạt động vì mục tiêu chung.

Cuối cùng, mọi cơ chế đều phải hướng tới mục tiêu tăng cường sự tham gia thực chất của NKT, lấy họ làm trung tâm trong mọi quá trình và khuyến khích họ trực tiếp đảm nhận vai trò lãnh đạo, điều hành.

Tóm lại, việc xây dựng một “hệ sinh thái hỗ trợ” toàn diện từ cơ chế tiếp cận nguồn lực thông thoáng, có bảo trợ pháp lý thông minh, đến hàng rào kỹ thuật đảm bảo an toàn, hiệu quả và việc trao quyền thực chất thông qua đào tạo sẽ biến tổ chức của NKT cơ sở thành đối tác đáng tin cậy, tự chủ và hiệu quả.

Có thể nói đây cũng chính là một trong những nguyên tắc nền tảng đánh giá sự hiệu quả của chính quyền hai cấp chỉ thực sự trọn vẹn khi tất cả người dân, bao gồm người khuyết tật, có thể tiếp cận và tham gia bình đẳng như nhận định của bà Đỗ Thị Huyền.

Thay lời kết

Như vậy, việc củng cố, nhân rộng và tạo mọi điều kiện để các tổ chức của NKT nhất là cấp cơ sở hoạt động hiệu quả không còn là một lựa chọn, mà là yêu cầu cấp thiết mang tính chiến lược để hiện thực hóa các cam kết quốc tế và chính sách quốc gia. Đây chính là chìa khóa then chốt để biến tầm nhìn “không ai bị bỏ lại phía sau” thành hiện thực sống động, nơi mọi chính sách đều chạm đến đúng đối tượng, và mọi tiềm năng đều có cơ hội tỏa sáng.

Quan trọng hơn, như bà Đỗ Thị Huyền đã chia sẻ, hành trình “Thúc đẩy xã hội hòa nhập người khuyết tật” là nhiệm vụ lâu dài của toàn xã hội, trong đó bản thân người khuyết tật “là người đồng hành, người kiến tạo, và người thực hiện”. Vì thế, đầu tư cho “mái nhà chung” cho sự ra đời và hoạt động vững mạnh của các tổ chức của NKT cơ sở chính là đầu tư cho một xã hội hòa nhập thực chất, nhân văn và bền vững. Đó phải là một xã hội nơi mỗi cá nhân, bất kể hoàn cảnh, đều có thể cảm thấy mình được quan tâm, có giá trị, có quyền tham gia bình đẳng và có cơ hội đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của cộng đồng, Thủ đô và đất nước.

Một lần nữa khẳng định, sự đồng hành, hỗ trợ kịp thời và thiết thực từ các cấp chính quyền, các tổ chức xã hội và toàn thể cộng đồng cho các tổ chức của NKT không chỉ là trách nhiệm, mà còn là sự đầu tư hiệu quả cho một tương lai chung tiến bộ, hòa nhập và hạnh phúc hơn cho tất cả mọi người.

Bài viết liên quan

Picture1

Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin TP. Hồ Chí Minh Kỷ niệm 20 năm thành lập Hội và đón nhận Huân chương Lao động hạng Ba

12121

NHỮNG NỖ LỰC PHI THƯỜNG TRONG HÀNH TRÌNH ĐẾN VỚI HOA HẬU TRĂNG KHUYẾT 2025

11121

Hoa Hậu Trăng Khuyết 2025: Sân chơi đặc biệt tôn vinh vẻ đẹp và nghị lực của phụ nữ khuyết tật

123

Hiệp hội Hiroshima – Việt Nam hỗ trợ thường niên 100.000 JPY cho nạn nhân da cam Việt Nam

06123

Đại hội Hiệp hội Văn hóa Ẩm thực tỉnh Ninh Bình lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 -2030

04123

VIỆC LÀM- CƠ HỘI HOÀ NHẬP BÌNH ĐẲNG CHO NGƯỜI KHUYẾT TẬT

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang