Đặt vấn đề
Quyền tự do kinh doanh là quyền hiến định được khẳng định tại Điều 33, Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm.”. Đây là nền tảng để tất cả công dân, bao gồm NKT thực hiện quyền khởi nghiệp, đầu tư mở doanh nghiệp để làm giàu và cống hiến cho xã hội. Bên cạnh Hiến pháp, các quy định pháp luật về quyền tự do kinh doanh trong đó có quyền tự do kinh doanh của NKT) được quy định rõ trong Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư đã tạo ra động lực để NKT thực hiện giấc mơ khởi nghiệp. Thực tiễn cho thấy nhiều NKT ở Việt Nam đã khởi nghiệp thành công, có những công ty do NKT thành lập trong nhiều lĩnh vực đã tạo công ăn, việc làm cho rất nhiều lao động là NKT, đóng góp cho ngân sách Nhà nước. Có thể nói nhiều doanh nghiệp ở nước ta được thanh lập và điều hành bởi NKT và đã tạo được uy tín, vị thế trong hoạt động kinh doanh, nếu có khung pháp lý thuận lợi, có sự hỗ trợ kịp thời thì NKT hoàn toàn có thể đóng góp tích cực cho nền kinh tế.
(ảnh minh họa – nguồn: Internet)
Một số quy định về quyền tự do kinh doanh của NKT
Nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành có thể khẳng định pháp luật đã có những quy định, tạo hành lang pháp lý khá cởi mở, tạo điều kiện thuận lợi để NKT khởi nghiệp kinh doanh. Luật Người khuyết tật năm 2010, quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của NKT, chính sách của Nhà nước trong tạo việc làm, hỗ trợ sản xuất kinh doanh, trợ giúp NKT. Điều 5 (chính sách của Nhà nước đối với NKT) đã đẩy mạnh công tác bảo trợ xã hội, chăm lo, giúp đõ NKT hòa nhập cộng đồng, tạo ra công tác xã hội hóa trợ giúp NKT. Các quy định tại Điều 32, Điều 33, Điều 34, Điều 35 Luật người khuyết tật về dạy nghề, đào tạo, hỗ trợ việc làm, ưu đãi về thuế, vay vốn là đòn bẩy để NKT thực hiện quyền tự do kinh doanh.
Luật Doanh nghiệp năm 2020, điều chỉnh việc thành lập, tổ chức, quản lý và hoạt động của doanh nghiệp. Trong đó Điều 17 quy định: Mọi tổ chức, cá nhân đều có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp, trừ các trường hợp bị cấm (người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi…). Như vậy, NKT có đầy đủ năng lực hành vi dân sự thì không bị hạn chế thanh lập doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp cũng không hạn chế quyền đối với NKT là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, nếu chủ doanh nghiệp là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì có thể thực hiện quyền thông qua người giám hộ.
Luật Đầu tư 2020 tại Điều 5 quy định: Nhà đầu tư có quyền thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong các ngành, nghề mà Luật này không cấm. Đối với ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện thì nhà đầu tư phải đáp ứng các điều kiện đầu tư kinh doanh theo quy định của pháp luật; Nhà đầu tư được tiếp cận, sử dụng các nguồn vốn tín dụng, quỹ hỗ trợ, sử dụng đất đai và tài nguyên khác theo quy định của pháp luật. Với quy định này tạo ra quyền bình đẳng giữa các nhà đầu tư trong đó có NKT được quyền tự chủ lựa chọn ngành nghề, hình thức đầu tư. Ngoài ra, nếu doanh nghiệp do NKT làm chủ mà sử dụng người lao động là NKT từ 30% tổng số lao động trợ lên là NKT sẽ được hưởng các chế độ ưu đãi cụ thể như sau: khoản 1 Điều 9 Nghị định 28/2012/NĐ-CP ngày 10 tháng 4 năm 2012 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Người khuyết tật quy định: “1. Cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng từ 30% tổng số lao động trở lên là người khuyết tật quy định tại Điều 34 Luật Người khuyết tật được hưởng các chính sách ưu đãi sau đây: a) Hỗ trợ kinh phí cải tạo điều kiện, môi trường làm việc phù hợp cho người khuyết tật theo quy định của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội. Mức hỗ trợ theo tỷ lệ người khuyết tật làm việc ổn định tại cơ sở sản xuất, kinh doanh, mức độ khuyết tật của người lao động và quy mô của cơ sở sản xuất, kinh doanh theo quy định của Thủ tướng Chính phủ. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) quyết định mức kinh phí hỗ trợ cải tạo điều kiện, môi trường làm việc cho cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng từ 30% tổng số lao động trở lên là người khuyết tật; b) Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về thuế; c) Vay vốn ưu đãi theo dự án phát triển sản xuất kinh doanh từ Ngân hàng Chính sách xã hội. Điều kiện vay, thời hạn vay, mức vốn vay và mức lãi suất vay thực hiện theo quy định hiện hành áp dụng đối với dự án vay vốn giải quyết việc làm; d) Ưu tiên cho thuê đất, mặt bằng, mặt nước theo quy định của pháp luật; đ) Miễn tiền thuê đất, mặt bằng, mặt nước phục vụ sản xuất kinh doanh đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng từ 70% lao động là người khuyết tật trở lên. Giảm 50% tiền thuê đất, mặt bằng, mặt nước phục vụ sản xuất kinh doanh đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng từ 30% đến dưới 70% lao động là người khuyết tật. Trong thời gian được miễn, giảm tiền thuê đất, mặt bằng, mặt nước, cơ sở sản xuất, kinh doanh không được chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng, cho, cho thuê quyền sử dụng đất, mặt bằng, mặt nước; không được thế chấp, cầm cố, bảo lãnh, góp vốn liên doanh, liên kết bằng quyền sử dụng đất, mặt bằng, mặt nước theo quy định của pháp luật về đất đai”.
Như vậy, đối chiếu các quy định pháp luật hiện hành, NKT được quyền lựa chọn bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào miễn là phù hợp với tình trạng sức khỏe và điều kiện kinh doanh của họ. Ví dụ: Người khiếm thị có thể mở hộ kinh doanh quán cà phê sách nói, hoặc thành lập công ty TNHH sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. Có thể góp vốn, mua cổ phần trong các công ty. Điều này mở ra cơ hội cho NKT tham gia kinh doanh mà không nhất thiết phải trực tiếp quản lý và được Nhà nước bảo đảm quyền bình đẳng như mọi cá nhân, tổ chức khác.
Để thực hiện quyền kinh doanh thì NKT cần thực hiện thủ tục đăng ký doanh nghiệp. Hiện nay không có sự phân biệt giữa NKT và người không khuyết tật. Ví dụ, để thành lập công ty TNHH một thành viên, NKT chỉ cần: Giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp. Điều lệ công ty. Bản sao CCCD/hộ chiếu. NKT có thể nộp hồ sơ qua Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp hoặc có thể thông qua đại diện ủy quyền để nộp hồ sơ. Việc thực hiện thủ tục hành chính thông qua phương tiện điện tử cũng đã tháo gỡ được khó khăn cho NKT có khiếm khuyết về vận động, nghe, nói.
Kết luận
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển kinh tế thị trường, quyền tự do kinh doanh được xem là một trong những quyền cơ bản của công dân, được Hiến pháp và pháp luật Việt Nam ghi nhận và được chi tiết trong các Văn bản quy phạm pháp luật. Đối với NKT với tư cách là một nhóm người xác định là yếu thế trong xã hội cần được quan tâm và kịp thời hỗ trợ. NKT cũng có quyền bình đẳng trong việc tiếp cận các cơ hội kinh doanh, thành lập và quản lý doanh nghiệp như mọi cá nhân, tổ chức khác. Việc tạo điều kiện pháp lý thuận lợi cho NKT khởi nghiệp không chỉ thể hiện sự nhân văn, bảo đảm quyền con người, mà còn góp phần phát huy tiềm năng lao động, nâng cao vị thế xã hội và đóng góp cho sự phát triển bền vững của quốc gia. Tuy nhiên, để hiện thực hóa quyền này, NKT cần được pháp luật bảo đảm về quyền năng pháp lý, thủ tục hành chính với các ưu tiên, ưu đãi phù hợp./.
Luật sư Nguyễn Văn Nguyên, Trung tâm trợ giúp pháp lý Đồng Hành Việt, Tạp chí điện tử Đồng Hành Việt
(Hưng Nguyên)