NGƯỜI KHUYẾT TẬT VỚI CƠ QUAN DÂN CỬ

LTS: Hành lang pháp lý về quyền tham gia chính trị của người khuyết tật tại Việt Nam đã khá đầy đủ. Nhưng từ “có quyền” trong văn bản đến “thực hiện được quyền” trong đời sống là thực tế vẫn là một khoảng cách không dễ thu hẹp. Loạt bài “NGƯỜI KHUYẾT TẬT VỚI CƠ QUAN DÂN CỬ” không chỉ dừng lại ở việc chỉ ra “khoảng cách” còn tồn tại đó, mà quan trọng hơn, là tìm kiếm những giải pháp thiết thực dựa trên bằng chứng và kinh nghiệm thực tế. Kỳ 1 sẽ tập trung làm rõ nền tảng pháp lý – bước đệm cần thiết đầu tiên cho mọi sự thay đổi.

Kỳ 1: Quyền tham gia chính trị – Nền tảng của hòa nhập xã hội

Trong cơ cấu tổ chức của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cơ quan dân cử là thiết chế quyền lực nhà nước do Nhân dân trực tiếp bầu ra, gồm Quốc hội ở trung ương và Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp ở địa phương. Đây là biểu hiện tập trung nhất của quyền làm chủ của Nhân dân, thể hiện qua việc cử tri trực tiếp lựa chọn những người đại diện cho ý chí, nguyện vọng và lợi ích chính đáng của mình.

Và tham gia chính trị không chỉ là quyền cơ bản của công dân, mà còn là thước đo cho mức độ dân chủ, bình đẳng và bao trùm của một xã hội. Đối với hơn 6 triệu người khuyết tật tại Việt Nam, việc được bảo đảm thực thi quyền này, đặc biệt trong hoạt động ứng cử đại biểu Quốc hội, HĐND các cấp không chỉ thể hiện sự bình đẳng về pháp lý mà còn mang ý nghĩa sâu sắc về xã hội và nhân văn.

Quốc hội và Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp là cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân, nơi thể hiện quyền lực của cử tri trong quản lý xã hội. Đại biểu dân cử không chỉ là người làm luật, mà còn là người mang tiếng nói của các nhóm xã hội, phản ánh những nhu cầu, lợi ích và khát vọng từ thực tiễn đời sống.

Theo Điều 69 Hiến pháp năm 2013 (sửa đổi 2025), “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.”

Và Điều 70 của Hiến pháp cũng quy định rõ những nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của Quốc hội.

Như vậy, Quốc hội không chỉ là cơ quan hoạch định chính sách và xây dựng pháp luật, mà còn là trung tâm điều phối, giám sát và bảo đảm tính thống nhất của quyền lực nhà nước ở tầm quốc gia.

Theo Điều 111 Hiến pháp năm 2013 (sửa đổi 2025) và Điều 2 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025 quy định: Hội đồng nhân dân là một đơn vị cấp chính quyền địa phương. Điều 113 Hiến pháp quy định: Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân.

Có thể nói, nếu Quốc hội được ví như “bộ não” của quyền lực nhà nước ở tầm quốc gia, thì Hội đồng nhân dân chính là “cánh tay nối dài” của quyền lực Nhân dân ở cơ sở.

Theo Điều 79 Hiến pháp 2013 (sửa đổi 2025), “Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân; chịu trách nhiệm trước cử tri và cơ quan đã bầu ra mình.” Tương tự, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025 cũng quy định: Đại biểu Hội đồng nhân dân là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân địa phương, chịu trách nhiệm trước cử tri địa phương và trước Hội đồng nhân dân về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đại biểu của mình.

Vai trò, nhiệm vụ và trách nhiệm của đại biểu dân cử là yếu tố trung tâm thể hiện bản chất dân chủ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND) là những người đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân; là cầu nối giữa Nhân dân với Nhà nước, giữa ý chí của cử tri và chính sách của cơ quan công quyền. Họ không chỉ tham gia vào quá trình lập pháp, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước mà còn trực tiếp mang tiếng nói của người dân đến nghị trường, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của cử tri.

Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 (sửa đổi, bổ sung 2025) và Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015, đại biểu dân cử có bốn nhóm nhiệm vụ cơ bản: (1) Tham gia xây dựng chính sách và pháp luật; (2) Thực hiện quyền giám sát và chất vấn các cơ quan nhà nước; (3) Tiếp xúc, lắng nghe và phản ánh trung thực ý kiến, kiến nghị của cử tri; và (4) Giữ gìn phẩm chất, đạo đức, lối sống, thể hiện tính liêm chính, gương mẫu trong thực thi công vụ. Bên cạnh đó, đại biểu còn có trách nhiệm báo cáo trước cử tri, giải trình các quyết định, hoạt động của mình và chịu sự giám sát của cơ quan dân cử cũng như Nhân dân.

Trách nhiệm cao nhất của đại biểu dân cử là bảo đảm mọi chính sách, pháp luật được xây dựng và thực thi đều xuất phát từ lợi ích của Nhân dân, vì Nhân dân và do Nhân dân. Đại biểu không chỉ đại diện cho một khu vực bầu cử, mà còn đại diện cho tiếng nói chung của quốc gia, của các nhóm xã hội, trong đó có người khuyết tật và các nhóm yếu thế khác.

Nói cách khác, đại biểu dân cử chính là “tai, mắt và tiếng nói” của Nhân dân trong bộ máy nhà nước – cầu nối để ý chí của Nhân dân được thể chế hóa thành chính sách và pháp luật bên cạnh sự quản lý nhà nước.

Trên cơ sở đó, việc người khuyết tật tham gia vào cơ quan dân cử dù với tư cách đại biểu hay cử tri đều mang ý nghĩa không chỉ là sự thực thi quyền công dân bình đẳng, mà còn là bước tiến quan trọng trong việc đảm bảo tiếng nói đa dạng của xã hội được phản ánh đầy đủ trong nghị trường. Đặc biệt, khi có đại biểu là người khuyết tật, chính sách sẽ trở nên thực tế hơn, kịp thời hơn, toàn diện hơn… cũng như được đưa ra thảo luận trên cơ sở trải nghiệm thật, giúp quyền lợi của hơn 6 triệu người khuyết tật nói riêng và cộng đồng nói chung được bảo đảm hiệu quả và nhân văn hơn.

Chính vì vậy, việc người khuyết tật có đại diện trong cơ quan dân cử không chỉ là minh chứng cho sự tiến bộ và bình đẳng về quyền công dân, mà còn giúp chính sách trở nên gần gũi, thiết thực, nhân văn và bao trùm hơn với các nhóm yếu thế. Bởi, người khuyết tật họ hiểu rõ những rào cản trong tiếp cận hạ tầng, giáo dục, y tế hay việc làm – những vấn đề mà chỉ ai đang trực tiếp trải qua mới có thể phản ánh đầy đủ và chân thực.”

Việt Nam là một trong những quốc gia châu Á có hệ thống pháp luật sớm và khá toàn diện về quyền của người khuyết tật, trong đó có quyền tham gia chính trị.

Ở cấp độ quốc tế:

Năm 2014, Việt Nam phê chuẩn Công ước Liên Hợp Quốc về quyền của người khuyết tật (CRPD), trong đó Điều 29 quy định rõ: các quốc gia phải bảo đảm cho người khuyết tật được tham gia đầy đủ, hiệu quả vào đời sống chính trị và công cộng, bao gồm quyền bầu cử, ứng cử.

Ở cấp độ quốc gia:

– Hiến pháp năm 2013 (Điều 27) khẳng định: “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân.”

– Luật Người khuyết tật năm 2010 (Điều 4) quy định: NKT được đảm bảo đầy đủ các quyền công dân

Các văn bản pháp luật khác cũng không đưa ra bất kỳ giới hạn nào đối với người khuyết tật, trừ trường hợp mất năng lực hành vi dân sự.

Như vậy, về mặt pháp lý, người khuyết tật hoàn toàn bình đẳng trong việc thực hiện quyền bầu cử và ứng cử như mọi công dân khác. Hành lang pháp lý hiện nay thể hiện rõ cam kết của Nhà nước Việt Nam trong việc thúc đẩy sự tham gia chính trị toàn diện, không rào cản.

Dù được pháp luật bảo đảm, song thực tế cho thấy sự tham gia của người khuyết tật vào đời sống chính trị, đặc biệt ở vị trí đại biểu dân cử, còn rất hạn chế. Theo Tổng cục Thống kê (2023), Việt Nam có 6.11% dân số là người khuyết tật, nhưng dù chưa có thống kê cụ thể nhưng có thể nhận thấy tỷ lệ người tham gia ứng cử hoặc đảm nhiệm vị trí trong cơ quan dân cử vẫn rất thấp và chưa tương xứng với tiềm năng.

Nguyên nhân đến từ nhiều phía: rào cản xã hội và định kiến; rào cản tâm lý nội tại (tự ti, e ngại); rào cản hạ tầng và truyền thông; cùng với sự thiếu vắng các chương trình hỗ trợ và đào tạo chuyên biệt cho người khuyết tật muốn ứng cử. Những yếu tố này tạo nên khoảng cách giữa “quyền hiến định” và “khả năng thực thi”, khiến quyền tham gia chính trị vẫn chủ yếu dừng lại ở mặt pháp lý.

Trong nhiều cuộc đối thoại và khảo sát gần đây, người khuyết tật bày tỏ mong muốn được lắng nghe, được tham gia hoạch định chính sách và được nhìn nhận bằng năng lực, thay vì sự thương cảm. Xuất phát của vấn đề này, một lần nữa phải khẳng định từ sự tương đối toàn diện, đầy đủ và có nhiều nội dung trong quy định pháp luật, chính sách hỗ trợ và sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các cấp ngành cùng chính quyền địa phương, các tổ chức đoàn thể… trong những năm qua nhất là từ khi có Pháp lệnh Người tàn tật sau này là Luật Người khuyết tật 2010. Nhờ thụ hưởng các chính sách đó, người khuyết tật không ngừng nỗ lực, cố gắng vươn lên; xã hội cũng thay đổi cách tiếp cận, nhìn nhận và hành vi… Hiện nay dù còn hạn chế nhưng về cơ bản người khuyết tật đã “xuất hiện” trong nhiều lĩnh vực trên mọi phương diện đời sống kinh tế chính trị xã hôi, văn hóa… và ngày một nhiều cũng như có những đóng góp hiệu quả vào công cuộc xây dựng, phát triển cũng như bảo vệ đất nước. Đồng thời, ngày càng có nhiều người khuyết tật, nhất là giới trẻ không những được đào tạo bài bản, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có uy tín, sự tự tin và mong muốn cống hiến, phụng sự cho cộng đồng, đất nước.

Khát vọng này cho thấy nhu cầu nội tại về đại diện chính trị là có thực. Tuy nhiên, một câu hỏi “then chốt” vẫn cần có lời giải đáp thỏa đáng: Liệu cử tri – những người nắm giữ quyền quyết định cuối cùng trong phòng bỏ phiếu – có thực sự sẵn sàng bầu cho một ứng viên là người khuyết tật? Những yếu tố nào sẽ thuyết phục họ trao gửi niềm tin? Những định kiến xã hội liệu có phải là rào cản không thể vượt qua, hay mấu chốt lại nằm ở chiến lược vận động và hình ảnh của chính ứng viên?…

Chính những băn khoăn này dẫn dắt chúng tôi thực hiện cuộc khảo sát để lắng nghe ý kiến của cử tri ở mọi tầng lớp trong xã hội, nhằm cung cấp một bức tranh toàn cảnh và những bằng chứng định lượng rõ ràng nhất cho hành trình tiến vào nghị trường của người khuyết tật.

Đỗ Huy Hùng – Ths. Nguyễn Minh Châu

Bài viết liên quan

jnhikhiyu

Cần tăng cường truyền thông về quyền bầu cử, ứng cử của người khuyết tật

ynjyujmy

Pháp lệnh Ưu đãi người có công với Cách mạng có nên nâng thành Luật?

fgrththy

ĐÁNH GIÁ VÀ ĐỀ XUẤT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT NGƯỜI KHUYẾT TẬT NĂM 2010

Ảnh chụp màn hình 2025-10-06 112720

PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT

Ảnh chụp màn hình 2025-10-06 112242

Người khuyết tật và hành trình đi tìm hạnh phúc gia đình

Ảnh chụp màn hình 2025-09-29 162054

Vấn đề tiếp cận pháp luật và trợ giúp pháp lý đối với người khuyết tật

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang