Trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền con người và quyền công dân là nguyên tắc cơ bản, được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 và hệ thống pháp luật hiện hành. Người khuyết tật (NKT) là một nhóm xã hội đặc thù, cần được quan tâm nhằm bảo đảm sự bình đẳng, hòa nhập, đồng thời có cơ chế hỗ trợ phù hợp để thực thi đầy đủ các quyền và nghĩa vụ công dân.
Luật Người khuyết tật năm 2010, tại Điều 4, đã khẳng định rõ các quyền và nghĩa vụ của người khuyết tật. Đây là cơ sở pháp lý nền tảng để khẳng định rằng, trừ những trường hợp pháp luật quy định hạn chế năng lực hành vi dân sự, NKT có đầy đủ quyền và nghĩa vụ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Bài viết này phân tích cụ thể về quyền, nghĩa vụ, các chính sách ưu đãi, cũng như những vấn đề thực tiễn cần lưu ý liên quan đến NKT trong pháp luật dân sự Việt Nam.
- Quyền của người khuyết tật trong pháp luật dân sự
- Năng lực pháp luật và năng lực hành vi
Theo Bộ luật Dân sự năm 2015, năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe hay khuyết tật. Ngay từ khi sinh ra, mỗi cá nhân đều có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự (Điều 16). Về năng lực hành vi dân sự, đa số NKT có năng lực hành vi đầy đủ như mọi công dân khác, ngoại trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố mất hoặc hạn chế năng lực hành vi (Điều 22, 23).
Do vậy, về nguyên tắc, NKT có quyền tham gia vào mọi quan hệ dân sự và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Việc khẳng định đầy đủ năng lực hành vi của NKT là bước tiến quan trọng, phù hợp với Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật (CRPD) mà Việt Nam là thành viên từ năm 2014.
- Quyền cụ thể trong một số lĩnh vực
– Quyền tài sản và giao dịch dân sự: NKT có quyền sở hữu, sử dụng, định đoạt tài sản; được ký kết hợp đồng mua bán, chuyển nhượng, vay mượn, thế chấp, lập di chúc… Ví dụ, một người khiếm thị có thể lập di chúc bằng văn bản có công chứng, với sự hỗ trợ của người làm chứng và công chứng viên.
– Quyền kinh tế – thương mại: NKT có quyền thành lập doanh nghiệp, hộ kinh doanh, tham gia quản lý và điều hành doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp 2020, đồng thời phải tuân thủ các quy định của Luật Thương mại và Luật Quản lý thuế.
– Quyền chính trị – xã hội: NKT có quyền bầu cử, ứng cử theo Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND năm 2015, tham gia các tổ chức chính trị – xã hội, hiệp hội nghề nghiệp.
– Quyền văn hóa, giáo dục, thể thao: Luật Giáo dục 2019 quy định NKT được học tập hòa nhập hoặc tại các cơ sở chuyên biệt; Luật Thể dục Thể thao 2018 khẳng định quyền được rèn luyện và thi đấu thể thao. Thực tế, các vận động viên NKT Việt Nam đã đạt nhiều thành tích tại Paralympic.
– Quyền hôn nhân và gia đình: Theo Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, NKT có quyền kết hôn, ly hôn, nhận con nuôi, để lại và hưởng thừa kế.
– Quyền lao động, việc làm: Bộ luật Lao động 2019 khẳng định nguyên tắc bình đẳng trong tuyển dụng và việc làm, cấm phân biệt đối xử với NKT. Luật Người khuyết tật 2010 quy định chính sách ưu tiên tuyển dụng, miễn giảm thuế cho doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động NKT.
– Quyền y tế và an sinh xã hội: NKT được hỗ trợ khám chữa bệnh, phục hồi chức năng, cấp dụng cụ chỉnh hình; được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng, hỗ trợ nhà ở, phương tiện đi lại, ưu tiên tiếp cận công trình công cộng.
Như vậy, quyền của NKT không chỉ dừng lại ở lĩnh vực dân sự thuần túy mà còn trải rộng ra mọi mặt của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, thể thao.
Song song với việc bảo đảm quyền và nghĩa vụ bình đẳng, Nhà nước ban hành nhiều chính sách ưu đãi nhằm tạo điều kiện để NKT khắc phục khó khăn, hòa nhập cộng đồng:
– Trong giáo dục: miễn giảm học phí, hỗ trợ học bổng, phát triển mô hình giáo dục hòa nhập.
– Trong y tế: ưu tiên khám chữa bệnh, phục hồi chức năng, cấp dụng cụ chỉnh hình.
– Trong việc làm: doanh nghiệp sử dụng nhiều NKT được miễn giảm thuế, hỗ trợ vay vốn.
– Trong an sinh xã hội: NKT được hưởng trợ cấp hàng tháng, hỗ trợ nhà ở, phương tiện đi lại.
– Về cơ sở hạ tầng: các công trình công cộng phải bảo đảm điều kiện tiếp cận cho NKT.
Những chính sách này là minh chứng cho tinh thần nhân văn của pháp luật, đồng thời bảo đảm bình đẳng thực chất giữa NKT và các nhóm công dân khác.
- Nghĩa vụ của người khuyết tật trong pháp luật dân sự
Bên cạnh quyền, NKT cũng có nghĩa vụ pháp lý và nghĩa vụ công dân tương tự như mọi cá nhân khác. Điều này thể hiện sự bình đẳng toàn diện trong tư cách chủ thể của pháp luật.
– Tuân thủ pháp luật và thực hiện hợp đồng: Điều 3 BLDS 2015 khẳng định mọi cá nhân đều bình đẳng, không phân biệt đối xử. Do đó, NKT khi tham gia giao dịch dân sự phải thực hiện đúng cam kết. Nếu vi phạm, họ phải chịu trách nhiệm dân sự theo Điều 351 và 360 BLDS 2015.
– Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: Điều 584 BLDS 2015 quy định mọi cá nhân gây thiệt hại thì phải bồi thường. Ví dụ, nếu một NKT điều khiển phương tiện giao thông gây tai nạn do lỗi của mình, họ vẫn phải bồi thường cho nạn nhân, chỉ có thể được giảm nhẹ trách nhiệm nếu có hoàn cảnh đặc biệt.
– Nghĩa vụ tài chính với Nhà nước: NKT vẫn phải nộp thuế, phí nếu tham gia hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, pháp luật có cơ chế miễn, giảm thuế cho những trường hợp đặc biệt khó khăn hoặc cho doanh nghiệp xã hội sử dụng nhiều NKT.
– Nghĩa vụ trong gia đình: Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 (Điều 69, 107) quy định cha mẹ, kể cả NKT, có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con cái, cấp dưỡng cho cha mẹ già yếu, con chưa thành niên. Thực tế, nhiều vụ án hôn nhân gia đình đã buộc người cha hoặc mẹ là NKT phải cấp dưỡng cho con, nhằm bảo đảm quyền lợi chính đáng của trẻ em.
– Chấp hành phán quyết của Tòa án: Điều 4 Luật Thi hành án dân sự 2008 (sửa đổi 2014) quy định mọi cá nhân phải chấp hành bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. NKT không phải là ngoại lệ.
– Nghĩa vụ quốc phòng, an ninh: Căn cứ tinh thần Luật Nghĩa vụ quân sự 2015 cùng các văn bản hướng dẫn quy định NKT có thể được miễn hoặc tạm hoãn nghĩa vụ quân sự do lý do sức khỏe. Tuy nhiên, họ vẫn có thể đóng góp bằng nhiều hình thức khác, như tham gia công tác xã hội, hỗ trợ hậu cần, tuyên truyền, đóng góp trí tuệ.
Nghĩa vụ của NKT được quy định thống nhất với mọi công dân, thể hiện sự công bằng, đồng thời khẳng định họ là chủ thể pháp luật đầy đủ, không chỉ là đối tượng “được bảo trợ” bởi về cơ bản, trừ các trường hợp theo luật định, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật và không hề có sự phân biệt các nhóm đối tượng.
III. Một số vấn đề thực tiễn cần lưu ý
Mặc dù pháp luật đã ghi nhận đầy đủ quyền và nghĩa vụ của NKT, song thực tiễn còn tồn tại nhiều khó khăn. Có thể kể đến như:
– Phân biệt đối xử ngầm định: Dù Bộ luật Lao động 2019 nghiêm cấm, NKT vẫn khó tiếp cận việc làm, thường bị từ chối vì lý do sức khỏe. Trong giao dịch dân sự, họ cũng có thể bị từ chối ký hợp đồng. Có thể ví dụ như: Trong giao dịch dân sự, NKT cũng có thể bị từ chối ký hợp đồng thuê nhà hoặc vay vốn vì định kiến “ngại rủi ro”. Điều này trái với Điều 3 BLDS 2015 về nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử.
– Thủ tục hạn chế năng lực hành vi thiếu minh bạch: BLDS 2015 cho phép Tòa án tuyên bố mất hoặc hạn chế năng lực hành vi, Tuy nhiên, trong thực tế, thủ tục này có nguy cơ bị lạm dụng, tỷ dụ như:
+ Một số gia đình vì mục đích kinh tế (như quản lý tài sản, thừa kế) đã xin Tòa án tuyên bố NKT mất năng lực hành vi, dù họ vẫn có khả năng tự quyết.
+ Việc giám định y khoa có thể chưa thực sự đảm bảo đầy đủ tính khách quan, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền tự định đoạt – vốn được CRPD (Điều 12) bảo vệ
– Chính sách ưu đãi chưa đồng bộ: Luật NKT 2010 dành nhiều chính sách ưu đãi như:
+ Điều 27: miễn, giảm học phí, hỗ trợ học bổng;
+ Điều 34: hỗ trợ vay vốn, miễn giảm thuế cho doanh nghiệp sử dụng nhiều NKT;
+ Điều 44: trợ cấp xã hội hàng tháng.
Tuy nhiên, việc triển khai gặp khó khăn: Một số chính sách chưa đi vào thực chất: ví dụ, nhiều doanh nghiệp không mặn mà tuyển dụng NKT dù có ưu đãi thuế, do e ngại chi phí đào tạo và cải tạo cơ sở vật chất….
– Hạ tầng chưa đáp ứng: Điều 39 Luật NKT 2010 yêu cầu công trình xây dựng, giao thông công cộng phải bảo đảm điều kiện tiếp cận. Nhưng thực tế, nhiều công trình vẫn chưa tuân thủ:
+ Rất ít tòa nhà hành chính có đường dốc cho xe lăn đạt chuẩn.
+ Người khiếm thị thiếu tín hiệu âm thanh tại ngã tư giao thông.
+ Hệ thống giao thông công cộng (xe buýt, tàu hỏa) chưa thân thiện với NKT.
Điều này hạn chế nghiêm trọng khả năng tham gia giao dịch dân sự, học tập, lao động của NKT.
– Định kiến xã hội: Pháp luật đã quy định đầy đủ nhưng định kiến xã hội có thể mới là rào cản lớn nhất:
+ Một bộ phận người sử dụng lao động cho rằng NKT “không đủ năng lực”, “chỉ phù hợp nhận trợ cấp chứ không phù hợp lao động”.
+ Trong hôn nhân, có trường hợp gia đình phản đối NKT kết hôn, dù pháp luật khẳng định quyền kết hôn bình đẳng (trừ một số trường hợp theo luật định).
Những khó khăn trên cho thấy khoảng cách đáng kể giữa quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện. Do đó, việc bảo đảm quyền dân sự cho NKT không chỉ dừng lại ở việc ban hành văn bản pháp luật, mà còn đòi hỏi:
+ Nâng cao nhận thức xã hội về quyền của NKT.
+ Minh bạch hóa thủ tục hạn chế năng lực hành vi.
+ Tăng cường nguồn lực cho các chính sách ưu đãi.
+ Kiểm tra, xử phạt nghiêm việc vi phạm quy định về cơ sở hạ tầng tiếp cận.
- Một số khuyến nghị cụ thể
– Khắc phục phân biệt đối xử: Bổ sung chế tài mạnh mẽ có thể như trong Bộ luật Lao động 2019 cần có quy định đảm bảo tuyển dụng số lượng NKT nhất định; tăng cường thanh tra; nhân rộng mô hình doanh nghiệp xã hội sử dụng NKT.
– Minh bạch hóa thủ tục hạn chế năng lực hành vi: Sửa đổi BLDS 2015, bổ sung cơ chế giám sát độc lập, bảo đảm sự tham gia của tổ chức bảo vệ quyền NKT; tham khảo CRPD để áp dụng cơ chế hỗ trợ ra quyết định.
– Nâng cao hiệu quả chính sách ưu đãi: Tăng ngân sách, giám sát chặt chẽ, khuyến khích doanh nghiệp thông qua ưu đãi thuế, tín dụng, đất đai.
– Cải thiện hạ tầng tiếp cận: Yêu cầu nghiêm ngặt các công trình tuân thủ QCVN 10:2024/BXD; xử phạt vi phạm; ưu tiên cải tạo trường học, bệnh viện, trụ sở hành chính.
– Nâng cao nhận thức xã hội: Đưa nội dung quyền NKT vào giáo dục; đẩy mạnh truyền thông; tạo cơ hội cho NKT tham gia chính trị, xã hội, thể thao để chứng minh năng lực.
- Về gia tố tụng dân sự của NKT
- Quyền tham gia tố tụng dân sự
Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) 2015: đương sự trong vụ án dân sự có quyền bình đẳng khi tham gia tố tụng, được trình bày ý kiến, cung cấp chứng cứ, yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
Điều 69 quy định Năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự của đương sự cũng khẳng định rõ vị trí, vai trò, quyền và nghĩa vụ của NKT trong tố tụng
Điều 186 BLTTDS 2015: mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức đều có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp. NKT cũng được hưởng đầy đủ quyền này.
Luật Trợ giúp pháp lý 2017 (Điều 7, Điều 8): NKT thuộc diện được trợ giúp pháp lý khi tham gia tố tụng, bảo đảm quyền tiếp cận công lý.
Về mặt pháp lý, NKT hoàn toàn có quyền khởi kiện, tham gia tố tụng và được hưởng các cơ chế hỗ trợ cần thiết để đảm bảo bình đẳng với các đương sự khác.
- Nghĩa vụ tố tụng dân sự của NKT
Ngoài việc được bảo đảm các quyền cơ bản khi tham gia tố tụng, NKT cũng có nghĩa vụ như các đương sự khác theo quy định của BLTTDS 2015. Cụ thể:
– Nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, tài liệu: Điều 70 BLTTDS 2015 quy định đương sự có nghĩa vụ chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; NKT khi khởi kiện hoặc tham gia tố tụng phải hợp tác với tòa án, cung cấp thông tin, tài liệu, chứng cứ trong phạm vi khả năng của mình; Trường hợp NKT không thể tự thu thập, cung cấp tài liệu, tòa án hoặc người giám hộ/người hỗ trợ có thể thực hiện thay, nhưng trách nhiệm pháp lý vẫn thuộc về đương sự.
– Nghĩa vụ chấp hành quyết định, yêu cầu của tòa án: NKT phải tuân thủ các quyết định tố tụng, lệnh triệu tập, yêu cầu có mặt tại phiên tòa, phiên họp, trừ trường hợp có lý do chính đáng (bệnh tật, hạn chế đi lại…); Nghĩa vụ hợp tác với tòa án và các cơ quan tiến hành tố tụng để bảo đảm giải quyết vụ án kịp thời, khách quan.
– Nghĩa vụ nộp án phí, lệ phí: Theo pháp luật hiện hành, NKT thuộc diện được miễn, giảm một số loại án phí, lệ phí khi tham gia tố tụng. Tuy nhiên, với những trường hợp không thuộc diện được miễn, NKT vẫn có nghĩa vụ nộp án phí, lệ phí như các đương sự khác.
– Nghĩa vụ tôn trọng trật tự phiên tòa, phiên họp: NKT cũng phải tuân thủ quy tắc tố tụng, giữ trật tự tại phiên tòa, tôn trọng Hội đồng xét xử, cán bộ tố tụng và các đương sự khác; Việc là NKT không loại trừ trách nhiệm về hành vi cản trở hoạt động tố tụng (nếu có).
Việc bổ sung nghĩa vụ giúp văn bản cân bằng hơn, đồng thời nhấn mạnh rằng NKT là chủ thể bình đẳng trong tố tụng: được hưởng đầy đủ quyền lợi, nhưng cũng phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ như các đương sự khác, chỉ khác ở chỗ có những cơ chế hỗ trợ đặc thù để bảo đảm họ có thể thực hiện các nghĩa vụ này một cách khả thi.
- Một số hạn chế và khó khăn trong thực tiễn
– Tiếp cận thông tin và tài liệu tố tụng: Người khiếm thị khó tiếp cận hồ sơ, bản án vì chưa có tài liệu chữ nổi hoặc file điện tử tương thích phần mềm đọc màn hình; Người khuyết tật nghe nói cần phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu, đọc màn hình… để tham gia phiên tòa nhưng nguồn nhân lực rất hạn chế.
– Khó khăn trong việc tự bảo vệ quyền lợi: NKT trí tuệ, tâm thần hoặc hạn chế nhận thức thường khó tự mình tham gia tố tụng, phụ thuộc vào người giám hộ; Quy định về giám hộ đôi khi chưa rõ ràng, có nguy cơ bị lạm dụng, ảnh hưởng đến quyền tự quyết của NKT.
– Rào cản vật chất – hạ tầng: Nhiều tòa án chưa có công trình tiếp cận: bậc thang, hành lang, phòng xử án không phù hợp với xe lăn hoặc thiết bị hỗ trợ; Phòng xử án chưa có bố trí thân thiện cho việc lấy lời khai từ NKT, đặc biệt là trẻ em hoặc người khuyết tật trí tuệ.
– Hạn chế từ phía cán bộ tố tụng: Thiếu kỹ năng làm việc với NKT; còn tình trạng coi NKT là “người yếu thế cần thương hại” thay vì chủ thể bình đẳng có quyền; Việc áp dụng trợ giúp pháp lý miễn phí chưa thực sự đồng bộ; nhiều NKT chưa biết hoặc không được hướng dẫn để tiếp cận.
- Một số giải pháp
– Hoàn thiện pháp luật tố tụng: Bổ sung quy định cụ thể về việc cung cấp hồ sơ, bản án dưới dạng chữ nổi, file điện tử có thể đọc bằng phần mềm hỗ trợ, NNKH; Quy định rõ ràng hơn về cơ chế giám hộ trong tố tụng dân sự, bảo đảm quyền tự quyết tối đa của NKT; Cho phép và khuyến khích sự tham gia của chuyên gia tâm lý, phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu, người hỗ trợ giao tiếp trong quá trình tố tụng.
– Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ tố tụng: Tập huấn kỹ năng làm việc với NKT cho thẩm phán, thư ký, điều tra viên, cán bộ tòa án; Xây dựng bộ hướng dẫn tố tụng thân thiện với NKT.
– Cải thiện cơ sở vật chất: Đầu tư phòng xử án có thiết kế tiếp cận cho NKT: lối đi xe lăn, âm thanh, ánh sáng, ghế ngồi phù hợp; Trang bị thiết bị công nghệ hỗ trợ cho NKT khi tham gia phiên tòa.
– Tăng cường truyền thông và trợ giúp pháp lý: Phổ biến cho NKT về quyền được khởi kiện, quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ; Tăng cường mạng lưới trợ giúp pháp lý miễn phí và đưa dịch vụ này gần hơn với cộng đồng NKT.
Mặc dù pháp luật tố tụng dân sự đã bảo đảm nguyên tắc bình đẳng và quyền tiếp cận công lý cho NKT, nhưng thực tiễn còn nhiều rào cản từ nhận thức, hạ tầng, nhân lực đến thủ tục. Hoàn thiện cơ chế pháp lý, nâng cao năng lực cán bộ và cải thiện điều kiện tiếp cận sẽ là giải pháp then chốt để NKT có thể tham gia tố tụng dân sự một cách thực chất, bình đẳng và hiệu quả.
Kết luận
Trong pháp luật dân sự, NKT được xác định là chủ thể có đầy đủ quyền và nghĩa vụ như mọi công dân khác. Họ có quyền tham gia vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục đến hôn nhân, gia đình và an sinh xã hội. Đồng thời, họ cũng phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ pháp lý: tuân thủ pháp luật, thực hiện hợp đồng, bồi thường thiệt hại, đóng thuế, nghĩa vụ gia đình, chấp hành bản án Tòa án và đóng góp cho quốc phòng, an ninh.
Việc kết hợp giữa nguyên tắc bình đẳng và chính sách ưu đãi đặc thù tạo nên nền tảng pháp lý quan trọng để NKT hòa nhập, phát huy năng lực và đóng góp cho xã hội. Đảm bảo quyền và nghĩa vụ dân sự của NKT không chỉ là vấn đề pháp lý, mà còn là thước đo mức độ văn minh, nhân văn và phát triển bền vững của xã hội Việt Nam.
Hải Phong