Hiến pháp và pháp luật – Những nền tảng pháp lý bảo đảm quyền của người khuyết tật

Việc bảo đảm quyền của người khuyết tật (NKT) không chỉ là vấn đề nhân đạo, mà quan trọng hơn là nghĩa vụ pháp lý của Nhà nước. Trong những năm qua, hệ thống pháp luật Việt Nam đã từng bước hình thành một khung pháp lý tương đối toàn diện, với Hiến pháp là tối cao, làm nền tảng cho việc ghi nhận, thực thi và bảo vệ quyền của NKT.

Hiến pháp năm 2013 tiếp tục kế thừa và phát huy tinh thần trong việc khẳng định và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, trong đó có quyền của NKT.  Điều 3 khẳng định Nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong đó không có bất kỳ quy định nào phân biệt các nhóm đối tượng trong xã hội. Đây chính là nguyên tắc nền tảng cho mọi chính sách đối với NKT.

Điều 14 tiếp tục nhấn mạnh quyền con người, quyền công dân được bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật, mang tính hiến định, bất khả xâm phạm. Khoản 1 Điều 16 nêu rõ “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”, loại bỏ mọi sự phân biệt đối xử dựa trên tình trạng khuyết tật và khoản 2 Điều này tiếp tục khẳng định

không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.

Đặc biệt, Điều 59 xác định Nhà nước có chính sách trợ giúp NKT, bảo đảm bình đẳng cơ hội thụ hưởng phúc lợi xã hội. Ý nghĩa quan trọng của Hiến pháp 2013 như đã nêu là tiếp tục khẳng định cách tiếp cận dựa trên quyền con người thay vì cách tiếp cận dựa trên tình thương, từ thiện. NKT không bị coi là đối tượng được “ban ơn”, mà là chủ thể có đầy đủ quyền và Nhà nước có nghĩa vụ bảo đảm các quyền đó.

Trên cơ sở Hiến pháp, hệ thống pháp luật chuyên ngành cũng đã được xây dựng, sửa đổi, bổ sung và ngày càng hoàn thiện để bảo đảm quyền NKT trong nhiều lĩnh vực của đời sống – xã hội. Luật Người khuyết tật năm 2010 là đạo luật “chuyên ngành” quan trọng nhất, khẳng định NKT có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân; quy định quyền tiếp cận trong y tế, giáo dục, dạy nghề, việc làm, văn hóa, thể thao, du lịch; yêu cầu công trình công cộng phải bảo đảm điều kiện tiếp cận; và phân định trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội… (từng chương, điều với những nội dung khá cụ thể). Bộ luật Dân sự năm 2015 khẳng định nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử; bảo vệ năng lực pháp luật và hành vi dân sự của NKT; chỉ Tòa án mới có thẩm quyền tuyên bố mất hoặc hạn chế năng lực hành vi. Bộ luật Lao động năm 2019 nghiêm cấm phân biệt đối xử trong lao động, đồng thời quy định chế độ hỗ trợ tạo việc làm và ưu đãi tuyển dụng lao động là NKT. Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định các tội danh xử lý hành vi ngược đãi, bạo hành, xâm hại NKT; coi hành vi phạm tội với NKT là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Các luật khác như Luật Giáo dục 2019, Luật Giáo dục nghề nghiệp 2014, Luật Xây dựng 2014, Luật Giao thông đường bộ 2008, Luật Trợ giúp pháp lý 2017…. cũng đã có những quy định cụ thể hóa quyền của NKT trong giáo dục hòa nhập, tiếp cận công trình, phương tiện giao thông, cũng như quyền được trợ giúp pháp lý miễn phí…

Không chỉ dừng ở phạm vi quốc gia, Việt Nam còn là thành viên của Công ước Liên hợp quốc về quyền của người khuyết tật (CRPD) từ năm 2014. Việc phê chuẩn công ước này mang ý nghĩa ràng buộc pháp lý, khi CRPD trở thành một phần của hệ thống pháp luật Việt Nam, buộc Nhà nước phải rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định trong nước để phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Đồng thời, CRPD khẳng định cách tiếp cận dựa trên quyền thay vì từ thiện, với nguyên tắc nổi tiếng: “Không có gì về chúng tôi mà không có chúng tôi”. Đặc biệt, với việc phê chuẩn không bảo lưu bất kỳ điều khoản nào của CRPD cho thấy Việt Nam đã có sự chuẩn bị và khẳng định sự cam kết mạnh mẽ của mình trong việc bảo đảm quyền của NKT.

Nhìn chung, Việt Nam đã thiết lập một nền tảng pháp lý tương đối đầy đủ, toàn diện và tiến bộ cho việc bảo đảm quyền của NKT. Từ Hiến pháp đến luật chuyên ngành đã từng bước chuyển đổi cách tiếp cận, coi NKT là chủ thể quyền bình đẳng. 

Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn còn những tồn tại, hạn chế thách thức và những bất cập nhất định, một điều tất yếu trong một xã hội không ngừng vận động và phát triển. Khoảng cách giữa quy định pháp luật và thực tiễn vẫn hiện hữu những “khoảng trống” khi nhiều công trình, dịch vụ công chưa bảo đảm điều kiện tiếp cận, tỷ lệ NKT có việc làm còn thấp…. Hay, một số quy định vẫn còn chung chung, thiếu chế tài mạnh để bảo đảm tính thực thi và thực thi hiệu quả. Cùng với đó là sự phối hợp liên ngành giữa các cơ quan nhiều khi chưa đồng bộ, gây hạn chế trong việc triển khai chính sách. Ngoài ra, một vấn đề cũng cần bàn luận là nhận thức của cộng đồng xã hội, những định kiến cố hữu vẫn còn về NKT dù nhận thức và hành vi cũng đã được thay đổi rất nhiều nhất là từ khi có pháp lệnh ra đời. Đồng thời, không thể không nói đến chính bản thân NKT và gia đình của NKT – những chủ thể của quyền vẫn còn những mặc cảm, tự ti hay chưa biết đến, nhận thức rõ quyền của mình.

Mặc dù hiến pháp 2013 và các luật chuyên ngành đã khẳng định quyền tiếp cận công lý, giáo dục, việc làm của người khuyết tật, nhưng số liệu VDS 2023 cho thấy khoảng cách đáng kể giữa quy định và thực tế. Ví dụ, tỷ lệ người khuyết tật từ 15 tuổi trở lên biết chữ chỉ đạt 79%, thấp hơn nhiều so với người không khuyết tật (96,3%); tỷ lệ được đào tạo nghề cũng chỉ 8,8%, trong khi nhóm không khuyết tật đạt 25,4%. Về việc làm, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của NKT năm 2023 là 23,9%, kém hơn 53,5 điểm phần trăm so với người không khuyết tật. Những con số này cho thấy, dù nền tảng pháp lý đã toàn diện, việc thực thi quyền vẫn còn hạn chế…

Có thể khẳng định rằng, thách thức hiện nay không phải nằm ở việc thiếu luật, mà ở khả năng đưa luật và chính sách vào đời sống. Cùng với đó là cơ chế thực thi hiệu quả, nguồn lực đầy đủ và quan trọng hơn cả là sự thay đổi nhận thức của toàn xã hội nhất là chính bản thân người khuyết tật là yếu tố quyết định. Bảo vệ và bảo đảm quyền của NKT không chỉ là trách nhiệm pháp lý của Nhà nước, mà còn là thước đo văn minh, nhân văn của cộng đồng. Đây cũng là lời nhắc nhở về vai trò không thể thiếu của chính các tổ chức NKT và từng cá nhân NKT trong việc giám sát, phản biện, góp ý và đồng hành cùng quá trình xây dựng chính sách. Chỉ khi Nhà nước, xã hội và chính cộng đồng NKT cùng chung tay, những quyền đã được hiến định và luật hóa mới thực sự trở thành hiện thực trong đời sống.

Lâm An

Bài viết liên quan

Ảnh chụp màn hình 2025-09-29 162054

Vấn đề tiếp cận pháp luật và trợ giúp pháp lý đối với người khuyết tật

Ảnh chụp màn hình 2025-09-29 145958

Từ chính sách pháp luật đến thực tiễn: Giao thông tiếp cận cho người khuyết tật có những bước phát triển

Ảnh chụp màn hình 2025-09-25 082348

Người khuyết tật và một số vấn đề trong pháp luật dân sự

Ảnh chụp màn hình 2025-09-23 090916

BÌNH LUẬN VỀ “GIẢI NGHĨA NGƯỜI KHUYẾT TẬT” THEO LUẬT NKT 2010 VÀ CRPD: DIỄN GIẢI VÀ NHỮNG QUAN ĐIỂM CÓ THỂ NGỘ NHẬN DỄ XẢY RA

Người khuyết tật và một số vấn đề trong pháp luật hình sự

1

Truyền thông pháp luật và trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật: Lưu ý một số rào cản

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang