Giáo dục và việc làm không chỉ là quyền mà còn là chìa khóa giúp người khuyết tật hòa nhập bình đẳng và đầy đủ

Trước hết, giáo dục chính là nền tảng mở ra cánh cửa tri thức và kỹ năng cho người khuyết tật (NKT). Khi được tiếp cận với trường lớp, tài liệu phù hợp và sự hỗ trợ cần thiết, NKT có cơ hội phát triển, phát huy năng lực, khẳng định giá trị bản thân. Giáo dục giúp họ thoát khỏi vòng luẩn quẩn phụ thuộc – bị động – tự ti, để bước vào trạng thái chủ động hơn trong cuộc sống. Quan trọng hơn, giáo dục hòa nhập còn góp phần thay đổi nhận thức của cộng đồng: khi học cùng lớp, cùng thầy cô, bạn bè sẽ nhìn NKT như những người bạn đồng trang lứa, không phải “đối tượng đặc thù” cần tách biệt. Cùng với đó là sự thay đổi nhận thức, tư duy và hành vi của toàn xã hội, dần dần sẽ kiến tạo một môi trường không rào cản sau một quá trình thay đổi.

     Bên cạnh đó, việc làm là điều kiện để NKT hiện thực hóa những gì họ học được, biến năng lực thành giá trị xã hội. Có việc làm đồng nghĩa với việc có thu nhập, tự nuôi sống bản thân, giảm gánh nặng cho gia đình và xã hội. Nhưng ý nghĩa lớn hơn nằm ở chỗ: việc làm giúp NKT tham gia vào các mối quan hệ xã hội bình đẳng, khẳng định họ là thành viên hữu ích, có đóng góp cho cộng đồng. Khi NKT được làm việc đúng khả năng, họ chứng minh rằng khuyết tật không đồng nghĩa với mất đi giá trị, từ đó góp phần phá vỡ những định kiến tồn tại lâu đời.

     Ở tầm vĩ mô, giáo dục và việc làm của NKT còn thúc đẩy sự phát triển nhân văn, bền vững của xã hội. Một xã hội chỉ thật sự bền vững khi mọi công dân, bao gồm cả NKT, đều có cơ hội phát triển và cống hiến. Khai thác và phát huy tiềm năng của NKT không chỉ giảm chi phí an sinh xã hội mà còn bổ sung nguồn nhân lực đa dạng, sáng tạo, phù hợp với xu thế phát triển toàn cầu. Đồng thời, việc bảo đảm quyền học tập và việc làm cho NKT cũng là minh chứng cho sự trưởng thành về văn hóa và đạo đức của một quốc gia – nơi công bằng, nhân văn có thể được coi là một trong những giá trị cốt lõi và được đặt ở vị trí trung tâm.

     Tuy nhiên, thực tế cho thấy cánh cửa tiếp cận hai lĩnh vực này vẫn chưa thực sự rộng mở. Theo Khảo sát quốc gia về người khuyết tật (VDS 2023), tỷ lệ trẻ khuyết tật đi học đúng độ tuổi chỉ đạt khoảng 50%, trong khi ở trẻ không khuyết tật con số trên 90%. Càng lên cấp học cao, tỷ lệ này càng giảm mạnh: chỉ còn 30,8% ở bậc THPT, phản ánh những rào cản tích lũy về cơ sở vật chất, thiếu giáo viên giáo dục đặc biệt và tài liệu học tập thân thiện (chữ nổi, ngôn ngữ ký hiệu, định dạng dễ hiểu). Báo cáo Ủy ban Quốc gia về NKT (2024) cũng cho thấy nhiều trường dù đã cải tạo nhưng vẫn “chưa tuân thủ đầy đủ quy chuẩn tiếp cận”, khiến không ít học sinh NKT bỏ học sớm. Điều đó đồng nghĩa, ngay từ nền tảng giáo dục, NKT đã đối diện với nhiều khó khăn trong quá trình phát triển.

    Ở lĩnh vực việc làm, khoảng cách càng rõ rệt. Vẫn theo VDS 2023, chỉ khoảng 31% NKT có việc làm, phần lớn tập trung ở khu vực phi chính thức với thu nhập thấp và thiếu an sinh. Đáng chú ý, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của NKT rất thấp (23,9%), cho thấy một bộ phận lớn thậm chí không có cơ hội tiếp cận thị trường lao động. Ngay cả những người có trình độ chuyên môn cũng khó tiếp cận thị trường lao động do môi trường làm việc chưa thân thiện (thiếu thang máy, phần mềm hỗ trợ, phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu…) và định kiến từ nhà tuyển dụng. Báo cáo của UBQGNKT (2024) cũng ghi nhận nhiều doanh nghiệp còn e ngại tuyển dụng NKT vì thiếu cơ chế khuyến khích và hỗ trợ cụ thể.

     Điều đáng nói, những hạn chế này tồn tại trong khi hệ thống pháp luật đã khẳng định rõ quyền giáo dục và việc làm của NKT. Hiến pháp 2013 quy định mọi công dân đều có quyền học tập và làm việc bình đẳng. Luật NKT 2010 dành hẳn các điều khoản về giáo dục (Điều 27- 31) và việc làm (Điều 32-35), quy định NKT được học hòa nhập, miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập, có quyền làm việc bình đẳng, được hỗ trợ học nghề, vay vốn, tạo việc làm. Bộ luật Lao động 2019 cấm phân biệt đối xử, yêu cầu bố trí điều kiện lao động phù hợp cho NKT. Luật Giáo dục 2019 cũng khẳng định trách nhiệm Nhà nước trong bảo đảm giáo dục hòa nhập. Không chỉ vậy, Việt Nam còn tham gia Công ước CRPD, với Điều 24 (giáo dục) và Điều 27 (việc làm) nhấn mạnh quyền bình đẳng, không loại trừ. Luật Việc làm 2013 cũng có quy định chính sách việc làm bình đẳng, không phân biệt đối xử, và có cơ chế hỗ trợ NKT thông qua Quỹ quốc gia về việc làm (Điều 12,13). Đây là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc thúc đẩy cơ hội tiếp cận việc làm của NKT, bên cạnh Luật NKT 2010 và Bộ luật Lao động 2019.

    Một nghịch lý đáng suy ngẫm là: trong khi hệ thống pháp luật đã xây dựng một khung khá đầy đủ và tiến bộ để bảo vệ quyền lợi của NKT, thì trên thực tế, chiếc chìa khóa pháp lý ấy vẫn chưa đủ sức mở tung các cánh cửa cơ hội. Sự chênh lệch giữa quy định và thực thi xuất phát từ nhiều nguyên nhân sâu xa. Có thể chỉ ra một số nguyên nhân chính:

    Thứ nhất, rào cản về cơ sở vật chất và hạ tầng tiếp cận: Nhiều trường học, trung tâm dạy nghề, cơ sở đào tạo và nơi làm việc chưa được thiết kế thân thiện, thiếu lối đi cho xe lăn, thiếu trang thiết bị hỗ trợ, thiếu tài liệu cho đến giáo viên hay thiếu công nghệ hỗ trợ học tập cho người khiếm thị, khiếm thính…. Điều này khiến NKT khó tham gia bình đẳng ngay từ khâu tiếp cận môi trường học tập và làm việc.

    Thứ hai, hạn chế trong chính sách và thực thi pháp luật: Dù pháp luật Việt Nam đã có quy định về quyền học tập, việc làm của NKT (Hiến pháp, Luật NKT, Bộ luật Lao động, Luật Giáo dục…), nhưng nhiều chính sách vẫn dừng ở mức khung, thiếu cụ thể nhất là thiếu chế tài hoặc cơ chế đảm bảo doanh nghiệp tuyển dụng. Việc triển khai cũng chưa đồng đều giữa các địa phương.

    Thứ ba, thiếu nguồn lực và dịch vụ hỗ trợ: Giáo viên dạy hòa nhập nhiều khi chưa được đào tạo bài bản về phương pháp sư phạm đặc thù; chương trình đào tạo nghề chưa phù hợp với từng dạng khuyết tật; dịch vụ hỗ trợ việc làm, giới thiệu việc làm cho NKT còn hạn chế.

     Thứ tư, định kiến xã hội và rào cản vô hình: Không ít gia đình vẫn coi việc cho con khuyết tật đi học là “không cần thiết”, chưa tiếp cận đầy đủ thông tin về quyền lợi và các chính sách hỗ trợ. Ví dụ, nhiều người không biết đến chính sách miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập, hay quyền được giới thiệu việc làm miễn phí qua các trung tâm dịch vụ việc làm. Tương tự, nhiều doanh nghiệp chưa nắm rõ các ưu đãi về thuế, vay vốn khi tuyển dụng lao động là NKT; một số doanh nghiệp lại ngần ngại tuyển dụng NKT vì lo chi phí phát sinh, năng suất thấp. Bản thân nhiều NKT cũng chịu ảnh hưởng tâm lý tự ti, thiếu tự tin trong quá trình học tập và tìm việc. Những khoảng trống thông tin này khiến chính sách trên thực tế chưa phát huy hết tác dụng.

    Thứ năm, thiếu sự phối hợp liên ngành và cơ chế giám sát: Giáo dục và việc làm cho NKT là lĩnh vực liên quan đến nhiều bộ ngành, đặc biệt sau khi sáp nhập, trách nhiệm càng cần được làm rõ giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế (phụ trách lĩnh vực lao động, thương binh và xã hội), và Bộ Văn hóa, Thông tin và Thể thao (phụ trách truyền thông). 

    Như vậy, dù pháp luật và xã hội đã có những bước tiến, nhưng để NKT thật sự hòa nhập bình đẳng trong giáo dục và việc làm, cần tháo gỡ đồng thời nhiều rào cản từ hạ tầng, chính sách, dịch vụ hỗ trợ đến thay đổi nhận thức cộng đồng.

Một số giải pháp và khuyến nghị

     Một là, hoàn thiện và cụ thể hóa hệ thống pháp luật, chính sách: Nhà nước cần rà soát, bổ sung các quy định về quyền học tập, đào tạo nghề và việc làm của NKT, chuyển từ nguyên tắc khung sang cơ chế cụ thể, có thể thực hiện được. Đặc biệt, cần có quy định về nghĩa vụ hỗ trợ tiếp cận của cơ sở giáo dục — đào tạo và doanh nghiệp tuyển dụng, kèm chế tài đủ mạnh để bảo đảm thực thi.

     Hai là, đầu tư hạ tầng và dịch vụ hỗ trợ: Cần xây dựng môi trường giáo dục và làm việc thân thiện với NKT, bao gồm hạ tầng tiếp cận (lối đi, phương tiện, thiết bị hỗ trợ), công nghệ thông tin thích ứng, dịch vụ phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu, tài liệu chữ nổi. Bên cạnh đó, cần phát triển các trung tâm dịch vụ việc làm chuyên biệt cho NKT, kết nối họ với thị trường lao động.

     Ba là, nâng cao năng lực và thay đổi nhận thức của đội ngũ giáo viên, cán bộ đào tạo, chủ doanh nghiệp và người lao động. Giáo viên cần được đào tạo về phương pháp sư phạm đặc thù cho giáo dục hòa nhập; doanh nghiệp cần được hỗ trợ kỹ thuật và tài chính để bố trí công việc phù hợp với NKT; đồng thời, cần có các chương trình khuyến khích để doanh nghiệp nhìn NKT như nguồn nhân lực tiềm năng chứ không phải gánh nặng.

     Bốn là, đẩy mạnh truyền thông về pháp luật và chính sách. Đây là giải pháp then chốt, giúp NKT hiểu rõ quyền lợi, nghĩa vụ và các cơ hội mà pháp luật dành cho mình; đồng thời giúp gia đình, nhà trường, doanh nghiệp và xã hội thay đổi nhận thức, xóa bỏ định kiến. Truyền thông pháp luật không chỉ dừng ở tuyên truyền, mà cần triển khai bằng nhiều hình thức gần gũi, dễ tiếp cận: các chương trình truyền hình có phụ đề và ngôn ngữ ký hiệu; ấn phẩm chữ nổi; tài liệu điện tử thân thiện; các buổi đối thoại chính sách trực tiếp tại cộng đồng NKT. Khi chính sách được truyền thông đầy đủ, minh bạch và dễ hiểu, quyền của NKT mới thực sự đi vào cuộc sống. Bên cạnh đó là đảm bảo NKT hiểu và thực hiện đúng nghĩa vụ công dân.

      Năm là, tăng cường cơ chế phối hợp liên ngành và giám sát thực thi. Cần có cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế (phụ trách lao động, thương binh và xã hội), Bộ Văn hóa, Thông tin và Thể thao (phụ trách truyền thông)… cùng các tổ chức của/vì người khuyết tật và chính quyền địa phương. Đồng thời, cần phát huy vai trò của các tổ chức xã hội, báo chí và cộng đồng trong giám sát, phản ánh và thúc đẩy thực thi chính sách.

Tạm kết

     Giáo dục và việc làm không chỉ là quyền cơ bản, mà còn là chiếc chìa khóa mở ra cánh cửa để người khuyết tật tự tin hòa nhập bình đẳng và đầy đủ, khẳng định giá trị bản thân và đóng góp cho cộng đồng. Khi pháp luật và chính sách được thực thi đồng bộ, khi truyền thông tạo ra sự thay đổi về nhận thức, và khi xã hội chung tay xây dựng môi trường học tập, làm việc thân thiện, thì người khuyết tật sẽ không còn đứng ngoài lề, mà sẽ trở thành một phần năng động, sáng tạo của tiến trình phát triển.

     Thực tế cho thấy, nhiều mô hình đã chứng minh giá trị của giáo dục và việc làm hòa nhập, như các doanh nghiệp xã hội tạo việc làm cho NKT (KymViet, SafeViet, chạm vào xanh…) hay các trường hòa nhập triển khai hỗ trợ cá nhân hóa. Đây là những minh chứng rằng khi có cơ chế phù hợp, người khuyết tật hoàn toàn có thể học tập, làm việc và cống hiến như những người khác trong xã hội.

     Mỗi hành động nhỏ – từ một lớp học thân thiện, một công việc bình đẳng, đến một thông tin pháp luật được truyền tải đúng cách đều là bước đi cụ thể giúp NKT hòa nhập, và cũng là cách để xã hội trở nên nhân văn, tiến bộ hơn.

     Một xã hội thực sự nhân văn và bền vững là nơi cơ hội học tập và làm việc được trao một cách công bằng cho mọi công dân. Từ đó, không chỉ người khuyết tật được hưởng lợi, mà chính cộng đồng và đất nước cũng trở nên giàu mạnh, văn minh hơn nhờ sự đa dạng và tinh thần vượt khó được khơi dậy.

Lâm An

Bài viết liên quan

Ảnh chụp màn hình 2025-09-29 165912

NKT từ tập huấn kiến thức đến sứ giả truyền thông

4

Khai mạc Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Hải Phòng lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 – 2030

Ảnh chụp màn hình 2025-09-25 225110

Vụ cướp điện thoại ở Tây Ninh: Hồi chuông cảnh tỉnh về sự bảo vệ đối với người khuyết tật

Ảnh chụp màn hình 2025-09-25 140243

Quyền tự do kinh doanh, mở doanh nghiệp của Người khuyết tật

Ảnh chụp màn hình 2025-09-25 090228

NGƯỜI KHUYẾT TẬT – CHỦ THỂ TRUYỀN THÔNG PHÁP LUẬT: MÔ HÌNH CẦN ĐƯỢC NGHIÊN CỨU, ĐÁNH GIÁ VÀ PHÁT TRIỂN

Ảnh chụp màn hình 2025-09-25 084235

CÂU LẠC BỘ PHỤ NỮ KHUYẾT TẬT: HIỆU QUẢ CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM TẠI BA TỈNH MIỀN TRUNG

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang