

Ảnh minh họa – Nguồn Internet
Hiện nay, Việt Nam có khoảng trên 6 triệu người khuyết tật, trong đó trẻ em chiếm một tỷ lệ đáng kể, gần 1 triệu người. Các em có thể khác biệt về thể chất hay giác quan, nhưng quan trọng hơn, các em cũng là những học sinh, những công dân tương lai có đầy đủ quyền được học tập, phát triển và cống hiến cho xã hội. Hiến pháp, Luật Giáo dục 2019 cũng như Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật (CRPD) mà Việt Nam tham gia đều khẳng định quyền được học tập bình đẳng của mọi trẻ em.
Thế nhưng, để những quy định ấy thực sự đi vào cuộc sống lại là một hành trình dài. Không ít trường học chưa đảm bảo tiêu chuẩn tiếp cận như: có ram dốc, nhà vệ sinh tiếp cận hay trang thiết bị hỗ trợ. Giáo viên còn thiếu kiến thức, kỹ năng giảng dạy hòa nhập. Chương trình học nhiều khi cứng nhắc, chưa cá nhân hóa phù hợp với khả năng từng em. Và đặc biệt, vẫn còn định kiến vô hình khiến nhiều đứa trẻ phải đứng ngoài cánh cổng trường. Đây chính là khoảng trống mà giáo dục không phân biệt phải lấp đầy.
Bình đẳng trong giáo dục không dừng ở việc cho phép trẻ khuyết tật tới lớp, mà là bảo đảm cơ hội học tập ngang bằng, không bị phân biệt đối xử, không bị giới hạn bởi khiếm khuyết hay hoàn cảnh. Thực tế cho thấy, không ai có thể đo đếm trước rằng một đứa trẻ khuyết tật hay không khuyết tật sẽ đóng góp nhiều hơn cho xã hội trong tương lai.
Một khía cạnh quan trọng của các cơ sở giáo dục hiện nay là hướng tới xây dựng “Trường học hạnh phúc” – nơi mọi trẻ em, dù khuyết tật hay không khuyết tật, đều cảm thấy an toàn, được tôn trọng và có cơ hội phát triển… Trong môi trường ấy, trẻ khuyết tật và trẻ không khuyết tật có thể học hỏi lẫn nhau, thấu cảm và giúp đỡ nhau. Những khác biệt không còn là rào cản, mà trở thành giá trị để mỗi em nhận ra sự đa dạng của cuộc sống, biết sẻ chia và hình thành tinh thần nhân ái. Giáo dục hòa nhập không chỉ dạy kiến thức, mà còn nuôi dưỡng trái tim và nhân cách, những giá trị nền tảng để xây dựng một xã hội công bằng, hiện đại, văn minh…
Lịch sử thế giới từng ghi nhận Helen Keller bị mù và điếc từ nhỏ nhưng trở thành nhà văn, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng; Stephen Hawking – người gắn chặt với chiếc xe lăn – lại để lại những lý thuyết vật lý làm thay đổi nhân loại… Và ngay chính ở Việt Nam, cũng không ít những tấm gương như thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký viết bằng chân; hiệp sỹ Nguyễn Công Hùng bị bại liệt nhưng sáng lập Trung tâm tin học người khuyết tật; hay vận động viên khiếm thị Lê Thị Tuyết Mai giành huy chương vàng Paralympic châu Á; Lực sỹ Nguyễn Văn Công phá kỷ lục thế giới… Tất cả đã chứng minh rằng giá trị và cống hiến không thể đo bằng sự có khiếm khuyết hay không, mà bằng cơ hội được học tập và khẳng định bản thân.
Để mô hình này đi vào thực tế, cần nhiều giải pháp đồng bộ. Trường học phải được đầu tư để bảo đảm đủ điều kiện tiếp cận; giáo viên cần được tập huấn để có kỹ năng làm việc với trẻ khuyết tật, với các dạng tật cũng như xây dựng kế hoạch dạy học phù hợp; chương trình học cần linh hoạt, cá nhân hóa; gia đình và cộng đồng phải đồng hành, thay đổi nhận thức để coi trẻ khuyết tật là công dân bình đẳng, không phải gánh nặng. Cùng với đó, Nhà nước cũng cần thường xuyên rà soát để sửa đổi, bổ sung hoàn thiện những chính sách ưu tiên sao cho phù hợp với từng bối cảnh; đầu tư ngân sách, khuyến khích các trường triển khai giáo dục hòa nhập và có chế độ đãi ngộ xứng đáng cho giáo viên tham gia giảng dạy…
Giáo dục không phân biệt hay giáo dục hòa nhập và trường học hạnh phúc không chỉ là mô hình quản lý, mà còn là cam kết về sự công bằng và nhân văn. Nó mở ra cánh cửa tri thức, để trẻ khuyết tật không bị bỏ lại phía sau, được vui chơi, học tập, phát triển và đóng góp cho xã hội. Một quốc gia chỉ thật sự văn minh và phát triển khi nền giáo dục bảo đảm cơ hội bình đẳng cho tất cả mà không phân biệt. Và không phân biệt có thể nói chính là một trong những thước đo chân thực nhất của sự tiến bộ và nhân văn.
Thanh Tâm – Tuệ Lâm
