Việc lựa chọn chiến lược phát triển một cách khoa học và phù hợp sẽ giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) thiết kế được các giải pháp chiến lược hiệu quả để có thể tận dụng được các cơ hội tốt nhất do thị trường mang lại, chủ động với những biến động của môi trường kinh doanh trong bối cảnh thị trường trong giai đoạn hậu Covid. Với các giải pháp chiến lược hiệu quả, DNNVV có thể duy trì và phát triển được thị phần, đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng, từ đó, đạt được mục tiêu, phát triển ổn định, bền vững và sử dụng hiệu quả nhất nguồn lực có hạn. Bài báo đề xuất những giải pháp chiến lược phát triển của DNNVV, giúp doanh nghiệp (DN) có thể hoạch định được một chiến lược phát triển hiệu quả và khả thi, đảm bảo hiệu quả công tác quản trị chiến lược nói riêng và hiệu quả kinh doanh nói chung.
Ảnh minh họa
1. Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây, sự thay đổi của chính sách nhà nước theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã làm số lượng các DNNVV tăng lên nhanh chóng. DNNVV đã góp phần quan trọng trong chuyển dịch về cơ cấu ngành nghề thông qua tạo việc làm, thu hút lao động từ lĩnh vực nông nghiệp, tham gia đầu tư vào các thị trường ngách, thúc đẩy sự phát triển của hoạt động sản xuất kinh doanh. Theo số liệu của phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tính đến ngày 31/12/2019, cả nước có 758.610 doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó, doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm trên 95%. Các DNNVV đóng góp tới 45% vào GDP, 31% vào tổng số thu ngân sách hàng năm và thu hút hơn 5 triệu lao động. Mặc dù, các DNNVV của Việt Nam có sự phát triển quan trọng, có những thành tựu to lớn, nhưng các doanh nghiệp này cũng còn nhiều hạn chế. Nội lực của các DNNVV còn hạn chế, theo số liệu của VCCI năm 2015, quy mô vốn bình quân chỉ ở mức 6,3 tỷ đồng. Điều này gây khó khăn cho việc đổi mới công nghệ và nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNNVV Việt Nam. Chi tiêu cho nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ-khoa học công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam hiện chỉ tương đương 0,2-0,3% doanh thu. Trình độ chuyên môn hóa của các doanh nghiệp thấp, sự hợp tác giữa các doanh nghiệp còn hạn chế. Các doanh nghiệp này không chủ động được nguồn cung, điều này được thể hiện ở tỷ lệ nội địa hóa các sản phẩm công nghiệp của Việt Nam chỉ đạt khoảng 33% và chỉ có 21% các DNNVV có liên kết sản xuất với chuỗi cung ứng nước ngoài. Những hạn chế này khiến cho các DNNVV thuộc nhóm đối tượng dễ bị tổn thương trong đại dịch Covid-19. Đại dịch Covid-19 xuất hiện với những tác động làm biến đổi mạnh môi trường kinh doanh của các DNNVV. Số liệu thống kê được Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam vừa đưa ra cho thấy, chỉ trong 9 tháng của năm 2020, có khoảng 70.000 doanh nghiệp phải tạm dừng hoạt động, với khoảng 18 triệu lao động mất việc làm. Nguyên nhân khiến nhiều doanh nghiệp đóng cửa là do không đổi mới phương thức hoạt động, trong khi đó, với những doanh nghiệp chủ động ứng dụng KHCN thì tỷ lệ tồn tại là rất cao, thậm chí có những doanh nghiệp nhìn thấy cơ hội để làm ăn có lãi rất nhiều. Như vậy, đổi mới và sáng tạo chính là con đường đảm bảo cho các DNNVV tồn tại và phát triển bền vững trong bối cảnh nền kinh tế có những biến động lớn do tác động của đại dịch Covid-19 gây ra. Bài báo đặt mục tiêu làm rõ tác động của đại dịch Covid-19 đến môi trường kinh doanh của DNNVV làm cơ sở để xác định những vấn đề trong đổi mới và sáng tạo để tồn tại và phát triển hậu Covid-19.
2. Tác động của đại dịch Covid-19 đến doanh nghiệp nhỏ và vừa
2.1. Tác động từ sự thay đổi của khách hàng
Nhu cầu về hàng hóa dịch vụ có sự sụt giảm nghiêm trọng làm giảm doanh thu bán hàng của các DNNVV. Đa phần các hộ gia đình đã sử dụng tiền tiết kiệm và cắt giảm chi phí để đối phó với giai đoạn sụt giảm thu nhập. Khoảng 74% hộ gia đình sử dụng tiền tiết kiệm và 70% hộ được khảo sát báo cáo đã cắt giảm chi tiêu. Bên cạnh đó, mặc dù Việt Nam đã kiểm soát rất tốt dịch bệnh Covid-19 nhưng các quốc gia khác vẫn đang phải đối mặt với sự gia tăng nhanh chóng về số người mắc bệnh Covid-19. Tại nhiều thị trường (như EU, Bắc Mỹ) các chính sách kiểm soát chặt chẽ hoạt động xuất nhập cảnh, di chuyển của các cá nhân có thể làm chậm trễ dòng chảy hàng hoá Việt Nam sang thị trường này. Hoạt động giao thương với các quốc gia khác cũng bị hạn chế đáng kể do nhiều chuyến hàng bị hoãn, hủy hoặc cắt giảm; các quy định liên quan đến kiểm soát dịch ở các quốc gia đặc biệt là các quốc gia phát triển cũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp.
Thói quen mua sắm của người tiêu dùng cũng có sự thay đổi, 82% người tiêu dùng được khảo sát có mua online thời gian cách ly xã hội; trong đó 98% cho biết, sẽ vẫn tiếp tục duy trì mua online trong tương lai. Xu hướng gia tăng mua sắm trực tuyến tạo ra cơ hội cho các doanh nghiệp đẩy mạnh chiến lược truyền thông kỹ thuật số và tạo nên những dấu ấn mạnh mẽ hơn trên thị trường trực tuyến. Việc người tiêu dùng mua sắm online ngày càng nhiều thúc đẩy các DNNVV thay đổi phương thức bán hàng, đầu tư nhiều hơn khoa học và công nghệ nhằm giữ chân khách hàng. Cùng với việc chấp nhận mua hàng trực tuyến, yêu cầu của khách hàng đối với việc bảo mật thông tin cũng cao hơn, đòi hỏi DNNVV bên cạnh việc đầu tư vào cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ trực tuyến thì phải bảo mật tốt dữ liệu khách hàng, đây cũng là thách thức lớn đối với các DNNVV Việt Nam khi nguồn lực còn hạn chế.
Hậu Covid-19, người tiêu dùng ngày càng quan tâm hơn đến vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm, nguồn gốc, xuất xứ hay thông tin sản phẩm. Các sản phẩm tốt cho sức khỏe và ít tác động đến môi trường ngày càng được người tiêu dùng ưu tiên lựa chọn. Điều này vừa là thách thức nhưng cũng chính là cơ hội để doanh nghiệp đổi mới sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng. Đặc biệt trong thời kỳ Việt Nam đã sớm khống chế được đại dịch Covid-19 trong khi các nước phát triển vẫn đang loay hoay với bài toán khống chế dịch, các DNNVV càng cần phải đổi mới, sáng tạo để chiếm lĩnh được thị trường trong nước và xuất khẩu hàng hóa ra thị trường quốc tế.
Cơ cấu sản phẩm tiêu dùng cũng có sự thay đổi do tác động của đại dịch. Các mặt hàng như thực phẩm, khẩu trang, nước rửa tay… chỉ giảm nhẹ và tiếp tục được người tiêu dùng ưu tiên lựa chọn. Một số các sản phẩm chăm sóc sắc đẹp, dịch vụ du lịch, giải trí giảm mạnh hơn so với các mặt hàng thiết yếu. Điều này dẫn đến các DNNVV cần phải có sự chủ động đổi mới sản phẩm và dịch vụ nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu thay đổi của người tiêu dùng.
2.2. Tác động từ sự thay đổi từ phía đối tác kinh doanh
Đại dịch Covid-19 diễn ra trên toàn cầu khiến các DNNVV rơi vào tình trạng thiếu nguyên liệu do chuỗi cung ứng nguyên liệu đầu vào bị gián đoạn. Đặc biệt, các nền kinh tế lớn như Trung Quốc, EU, Mỹ đều là những nơi có số ca nhiễm Covid-19 lớn và phải thực hiện các biện pháp giãn cách xã hội kéo dài. Các quy định về kiểm soát dịch bệnh dẫn đến việc khó khăn trong việc đi lại và giao tiếp trực tiếp giữa các đối tác kinh doanh và ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Mặc dù điều này gây nhiều khó khăn và bất tiện cho các DNNVV nhưng cũng thúc đẩy các doanh nghiệp đổi mới và sáng tạo, đặc biệt là ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động kinh doanh nhằm tìm kiếm và đa dạng hóa nguồn cung cấp nguyên liệu đầu vào.
Chi phí thương mại tăng cao tác động tới giá thành sản phẩm và từ đó tác động tới khả năng cạnh tranh của các DNNVV khi các doanh nghiệp này phụ thuộc lớn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Chi phí thương mại tăng cao do nhiều nguyên nhân khác nhau: (1) cước phí vận chuyển tăng do những hạn chế đi lại trong đại dịch; (2) rào cản chính sách thương mại của các nước có xu hướng thắt chặt hơn hậu Covid-19 và (3) mức độ không chắc chắn cao dẫn đến chi phí rủi ro tăng cao.
Lãi suất vay vốn ngân hàng có xu hướng giảm mạnh. Kể từ khi dịch Covid-19 bắt đầu bùng phát, đến nay, các ngân hàng đã có 3 lần giảm lãi suất cho vay đối với khách hàng, với mức giảm 2,5 – 3,0%/năm. Mức lãi suất đối với các lĩnh vực ưu tiên cũng đã được kéo xuống còn khoảng 5%/năm đối với ngắn hạn; 7,5 – 8,5%/năm với trung và dài hạn. Lãi suất cho vay giảm chính là cơ hội để các DNNVV đầu tư vào công nghệ nhằm cải tiến sản phẩm, hoàn thiện quy trình quản lý hoạt động kinh doanh.
85% doanh nghiệp đang đẩy nhanh tiến trình số hoá. Các lệnh phong tỏa và sự thay đổi trong hành vi tiêu dùng đã khiến các doanh nghiệp thay đổi cách vận hành. Khoảng 1/2 người đứng đầu doanh nghiệp tham gia khảo sát của McKinsey cho biết họ đang tăng cường số hoá các kênh tương tác với khách hàng bằng thương mại điện tử hoặc ứng dụng trên điện thoại. 35% doanh nghiệp khác đang phải số hoá mạnh mẽ chuỗi cung, chẳng hạn như áp dụng các nền tảng số trong quản lý vận hành chuỗi sản xuất. Khảo sát của McKinsey cũng chỉ ra các ngành số hoá với tốc độ nhanh nhất là tài chính và công nghệ, với lần lượt 88% và 76% lãnh đạo cho biết họ đang ứng dụng tự động hóa và AI vào quy trình hoạt động của doanh nghiệp từ khi Covid-19 bùng phát. Việt Nam có 72% doanh nghiệp nhỏ và vừa tìm cách chuyển đổi số để đưa sản phẩm và dịch vụ mới ra thị trường, tăng so với mức 32% của năm 2019, tập trung vào nâng cấp phần cứng công nghệ thông tin, công nghệ đám mây và an ninh mạng. Chuyển đổi số tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể đóng góp vào GDP từ 24 tỷ đến 30 tỷ USD năm 2024 và góp phần phục hồi kinh tế hậu Covid-19. Xu hướng số hóa hoạt động của các doanh nghiệp trong nước và quốc tế đã trở thành một nhiệm vụ bắt buộc đối với các DNNVV nếu muốn tồn tại và phát triển hậu Covid-19.
Cùng với sự phát triển của Khoa học công nghệ. Nhiều công cụ ra đời cho phép nhân viên làm việc từ xa nhưng vẫn đảm bảo hiệu quả hoạt động. Hậu Covid-19, số lượng lãnh đạo đồng ý cho nhân viên của mình làm việc từ xa hơn 2 ngày trong tuần tăng gần gấp đôi so với trước đại dịch. Nhờ có sự phát triển của KHCN các DNNVV cũng dễ dàng hơn trong việc đổi mới phương thức quản lý hiệu quả hoạt động của nhân viên.
Ảnh minh họa
2.3. Tác động từ sự thay đổi về chính sách
Thứ nhất, các chính sách tháo gỡ khó khăn. Để DNVVN thuận lợi hơn trong tiếp cận vốn, Chính phủ, các bộ, ngành đã ban hành nhiều chính sách để tháo gỡ khó khăn hỗ trợ cho DNNVV giai đoạn hậu dịch Covid-19: giảm lãi suất ngân hàng, hoãn nợ, giãn nợ, gia hạn thời gian nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế đất…Cụ thể, ngày 12/3/2020, NHNN đã ban hành Thông tư số 01/2020/TT-NHNN yêu cầu tổ chức tín dụng (TCTD), chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. Ngày 16/6/2020, Quốc hội đã thảo luận về dự thảo Nghị quyết giảm 30% thuế thu nhập phải nộp năm 2020 cho doanh nghiệp nhỏ, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp, với tiêu chí xác định doanh nghiệp được hỗ trợ này là đơn vị có doanh thu năm 2020 không quá 50 tỷ đồng, lao động đóng bảo hiểm xã hội dưới 100 người. Ngay từ đầu tháng 7/2020, NHNN đã chủ động điều chỉnh tín dụng hỗ trợ phục vụ cho tăng trưởng, trên cơ sở đó, các ngân hàng thương mại (NHTM), kể cả NHTM có vốn Nhà nước hay NHTM cổ phần tư nhân đã thực hiện điều chỉnh tăng trưởng tín dụng ở mức cao hơn so với nhu cầu. Mặc dù, chính sách hỗ trợ DNNVV hậu Covid-19 chưa thể bù đắp được hết những khó khăn rất lớn do đại dịch Covid-19 gây ra cho các doanh nghiệp nhưng cũng giúp giải quyết một phần những khó khăn mà DNNVV phải đối mặt hậu Covid-19. Những doanh nghiệp chủ động tiếp cận với những gói hỗ trợ này sẽ hạn chế phần nào những thiệt hại mà Covid-19 gây ra.
Thứ hai, Chính Phủ có nhiều chính sách hỗ trợ các DNNVV trong việc đổi mới sáng tạo. Cụ thể như cơ chế ưu đãi của Chính phủ đối với Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia được quy định tại Nghị định số 94/2020/NĐ-CP ban hành ngày 21/8/2020. Theo đó, về cơ chế, chính sách ưu đãi chung, Nhà nước khuyến khích và có các cơ chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ để tạo môi trường nghiên cứu và phát triển, đầu tư kinh doanh thuận lợi tối đa tại Trung tâm nhằm thu hút nhân tài, chuyên gia trong và ngoài nước, các tập đoàn, doanh nghiệp công nghệ lớn trong nước và từ các nước có trình độ công nghệ phát triển để thực hiện ý tưởng trên cơ sở khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ, mô hình kinh doanh mới và có khả năng tăng trưởng nhanh. Tuy nhiên, theo Cục Thông tin KH&CN quốc gia, việc đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp hiện nay còn chưa mạnh. Số doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo còn ít do đổi mới sáng tạo còn khá mới mẻ tại Việt Nam; nhận thức của doanh nghiệp về đổi mới sáng tạo chưa đầy đủ, nhiều doanh nghiệp chưa thấy được tác dụng, ý nghĩa, sự cần thiết phải đổi mới sáng tạo. Các doanh nghiệp quy mô nhỏ gặp khó khăn khi đổi mới công nghệ do nguồn lực tài chính hạn chế. Ngoài ra, một số bất cập trong chính sách cũng ảnh hưởng đến hoạt động đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp, như: chính sách khuyến khích trích lập và sử dụng quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp; chính sách, thủ tục tiếp cận ưu đãi thuế, đất đai, tín dụng.
Thứ ba, nhóm chính sách hỗ trợ DNNVV chuyển đổi số. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, trong giai đoạn phục hồi sau đại dịch Covid-19, chuyển đổi số sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ tìm kiếm một mô hình hoạt động kinh doanh linh hoạt hơn, vừa tiết giảm chi phí, vừa tối ưu nguồn lực để vượt qua khó khăn. Theo nghiên cứu được công bố trên báo Công Thương điện tử ra ngày 10/9/2020 về “Chuyển đổi số của các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể đóng góp 30 tỷ USD vào GDP Việt Nam”. Tuy nhiên trên thực tế hiện nay, phần lớn doanh nghiệp nhỏ và vừa mới chỉ nghe đến khái niệm chuyển đổi số, chứ để hiểu và thực hiện chuyển đổi số, kinh tế số còn là quá trình dài. Chuyển đổi số tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể đóng góp vào GDP từ 24 tỷ đến 30 tỷ USD năm 2024 và góp phần phục hồi kinh tế hậu Covid-19. Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với USAID thông qua Dự án Thúc đẩy cải cách và nâng cao năng lực kết nối của doanh nghiệp nhỏ và vừa (LinkSME) triển khai Chương trình Hỗ trợ Doanh nghiệp Chuyển đổi số giai đoạn 2021-2025. Chương trình cũng đặt mục tiêu có tối thiểu 100 doanh nghiệp được hỗ trợ là mô hình chuyển đổi số điển hình thành công để lan tỏa và nhân rộng; và thiết lập mạng lưới chuyên gia gồm tối thiểu 100 tổ chức, cá nhân tư vấn, cung cấp giải pháp thúc đẩy chuyển đổi số cho doanh nghiệp, hỗ trợ phát triển các nền tảng số. Thông qua Chương trình, các doanh nghiệp sẽ được hỗ trợ kỹ thuật tập trung vào 4 nội dung chính sau: Nâng cao nhận thức, tầm nhìn và chiến lược của doanh nghiệp về chuyển đổi số; số hóa hoạt động kinh doanh như marketing, bán hàng…; số hóa quy trình quản trị, quy trình sản xuất, quy trình công nghệ, các nghiệp vụ quản lý tài chính, kế toán, nhân sự, báo cáo, giám sát và đánh giá…; chuyển đổi số toàn diện để tạo ra sản phẩm, dịch vụ, mô hình mới cho doanh nghiệp. Trong giai đoạn đầu, Chương trình sẽ tập trung hỗ trợ các doanh nghiệp trong một số ngành, lĩnh vực như: cơ khí, điện tử, chế biến chế tạo, nông nghiệp, chế biến thực phẩm…
3. Đổi mới và sáng tạo trong doanh nghiệp nhỏ và vừa hậu Covid-19
Giai đoạn hậu Covid-19, đổi mới sáng tạo trong hoạt động kinh doanh là giải pháp phù hợp nhất đối với các DNNVV. Thứ nhất, giải pháp này tận dụng được cơ hội rất lớn từ chính sách nhà nước giai đoạn hậu Covid-19. Các chính sách hỗ trợ vay vốn lãi suất thấp, giãn nợ, gia hạn thuế….đã khắc phục được điểm yếu rất lớn của DNNVV là vốn ít. Đây là cơ hội tốt để doanh nghiệp vay vốn đầu tư vào kỹ thuật công nghệ và giải pháp quản lý để tăng cường khả năng cạnh tranh. Việc ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ trong các DNNVV được hỗ trợ rất lớn bởi sự phát triển mạnh mẽ về khoa học công nghệ trong thời kỳ đại dịch Covid-19. Điểm mạnh của các DNNVV là quy mô nhỏ gọn, bộ máy quản lý gọn nhẹ…cũng được phát huy vì các doanh nghiệp này sẽ dễ dàng hơn trong việc áp dụng công nghệ mới vào sản xuất. Lựa chọn đúng giải pháp kỹ thuật công nghệ để đổi mới cũng sẽ giúp DNNVV khắc phục được những thách thức đến từ sự thay đổi hành vi của khách hàng, của đối tác kinh doanh.
Đổi mới sáng tạo hoạt động kinh doanh chính là việc tạo ra, ứng dụng thành tựu, giải pháp kỹ thuật công nghệ, giải pháp quản lý để giữ chân khách hàng và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Sau đại dịch Covid, khách hàng có xu hướng chuyển dịch từ cá nhân hóa sang các dịch vụ trực tuyến theo nhu cầu, sẵn sàng chia sẻ thông tin cá nhân nhưng đòi hỏi mức độ bảo mật cao hơn. Chính vì vậy, các doanh nghiệp cần phải thay đổi mô hình kinh doanh, cung cấp các dịch vụ trực tuyến và bảo mật dữ liệu khách hàng. Bên cạnh đó, việc chuẩn hóa sản phẩm theo tiêu chuẩn cấp quốc gia, cấp quốc tế là yêu cầu bắt buộc đối với các DNNVV nhằm cung cấp đầy đủ thông tin sản phẩm cho khách hàng và tạo độ tin cậy về vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm, nguồn gốc, xuất xứ hay thông tin sản phẩm. Các DNNVV cần đón đầu nhu cầu mới của khách hàng để cải tiến sản phẩm.
DNNVV cần chú trọng tới các công cụ quảng cáo trực tuyến, nhằm tiếp cận tới các khách hàng tiềm năng cũng như cung cấp cho khách hàng những trải nghiệm về sản phẩm trực quan và sinh động hơn.
DNNVV cần nhanh chóng ứng dụng các tiến bộ công nghệ thông tin trong quản lý quy trình kinh doanh (như quy trình cung ứng vật tư, quy trình cung cấp sản phẩm, quy trình nội bộ….) nhằm tối ưu hóa tính linh hoạt, tiết kiệm chi phí, rút ngắn thời gian hoạt động, tăng năng suất và hiệu quả công việc.
DNNVV cần đầu tư nghiên cứu các công cụ mua hàng trực tuyến quốc tế để tiếp cận nhiều các nhà cung cấp quốc tế để tăng sự lựa chọn nhà cung cấp vừa đảm bảo chất lượng vừa có chi phí thấp. Phát triển mạng lưới cung ứng và hậu cần linh hoạt nhằm ổn định nguồn cung.DNNVV cần tăng cường thu hút nhân tài và đào tạo nguồn nhân lực nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới, ứng dụng khoa học công nghệ và quy trình quản lý số hóa.
DNNVV tăng cường tiếp cận các nhóm chính sách hỗ trợ của Chính phủ trong việc chuyển đổi số, giảm các chi phí sản xuất… để giảm thiểu những khó khăn nhằm vượt qua giai đoạn hậu Covid-19./.
TS. Phạm Thu Trang
Khoa Kinh Tế – QTKD, Trường Đại học Mỏ-Địa chất
Bài viết được đăng trên Tạp chí Đồng Hành Việt số chuyên đề “Giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp xử lý vướng mắc pháp sinh trong bối cảnh dịch Covid-19” do Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp 2015-2020 của Bộ Tư pháp (Chương trình 585) hỗ trợ thực hiện. Thông qua các bài viết được trong số chuyên đề mong muốn các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhất là các doanh nghiệp của và vì người khuyết tật cũng như doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động là người khuyết tật sẽ có thêm một số kiến thức, bài học, kinh nghiệm cùng cacs giải pháp để vượt qua khó khăn, lớn mạnh phát triển góp phần vào hoàn thành mục tiêu kinh tế mà Chính phủ đã đề ra trong bối cảnh bình thường mới do đại dịch hoành hành cũng như tiếp tục đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước… |