(ĐHVO). Định kiến Giới là một vấn đề tồn tại lâu năm trong xã hội Việt Nam. Định kiến giới nằm trong tư duy của cả nam và nữ, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến sự tiến bộ và phát triển của phụ nữ đặc biệt đối với phụ nữ là người khuyết tật, người yếu thế. Bài viết tập trung khẳng định vấn đề xóa bỏ định kiến giới là một vấn đề cấp thiết, cần làm kiên trì, bền bỉ để góp phần giảm bớt những rào cản đối với sự phát triển của phụ nữ trong đó có phụ nữ khuyết tật.
- Biểu hiện của định kiến giới
Định kiến giới có những biểu hiện rất rõ ràng trong cuộc sống, nó sâu sắc đến mức nhiều người cho đó là chân lý và coi đó là nguyên tắc trong hành động. Các định kiến giới là một tập hợp các đặc điểm mà một nhóm người, một cộng đồng cụ thể nào đó gán cho nam giới hay phụ nữ. Ví dụ, người ta hay cho rằng: Phụ nữ không đủ mạnh để làm lãnh đạo, hay nam giới không có khả năng chăm sóc con cái; phụ nữ thiên chức là làm việc nhà, chăm sóc chồng con; nam giới là làm những việc lớn ngoài xã hội; phụ nữ không nên ham danh vọng, địa vị cao ngoài xã hội, nam giới nên cố gắng có vị thế cao trong cộng đồng và phụ nữ khuyết tật thì càng không thể,… Các quan niệm này thường sai lệch, trong thực tế, những đặc điểm tính cách trên không chỉ của riêng nam giới hay phụ nữ, mà cả nam giới và phụ nữ đều có thể có. Đôi khi chính phụ nữ cũng định kiến về phụ nữ và nam giới cũng định kiến về nam giới. Xét theo một khía cạnh nào đó, những đặc tính trên lại thường bị gán cho nam hay nữ dưới góc độ phê phán và làm cho họ bị thiệt thòi. Chính định kiến đó đã hạn chế phụ nữ hoặc nam giới tham gia vào những công việc mà họ có khả năng hoàn thành một cách dễ dàng.
Định kiến giới gây bất lợi cho cả nam và nữ, nhưng phụ nữ ở vị thế bất lợi nhiều hơn, thể hiện trên nhiều khía cạnh. Một trong những định kiến giới biểu hiện khá rõ là gắn phụ nữ với vai trò gia đình, coi việc nội trợ, chăm sóc gia đình, nuôi dạy con cái là của phụ nữ và họ coi đó là thiên chức đáng quý cần phải duy trì, dạy dỗ cho các thế hệ sau. Đáng chú ý là, hiện nay nhiều người đang cổ súy cho tư tưởng đưa phụ nữ quay trở về với gia đình. Từ suy nghĩ đó nhiều phụ nữ đã bị hạn chế trên con đường học tập, lao động, phấn đấu và vươn lên trong sự nghiệp, giảm khả năng đóng góp nhiều hơn về sức lực và trí tuệ cho xã hội. Không những thế, còn nhiều phong trao xây dựng nên muốn phụ nữ phải giỏi cả hai lĩnh vực là Giỏi việc nước, đảm việc nhà gây áp lực cho không ít phụ nữ. Nhìn bề ngoài của cuộc sống, ai cũng ngỡ, hầu như phụ nữ đã được “lên ngôi”, họ được bình đẳng ngang với nam giới. Trong tư tưởng của nam giới, với tư cách là người chồng, cũng khá nhiều người ủng hộ vợ tham gia hoạt động xã hội. Tuy nhiên những người chồng đó “cho phép” vợ tham gia công việc xã hội nhưng vẫn phải làm tốt việc nhà. Họ muốn vợ của họ vừa là người xuất sắc ở cơ quan, vừa là người bà, người mẹ chăm chỉ làm tốt trách nhiệm nội trợ chăm sóc gia đình.
2. Góp phần xóa bỏ định kiến giới bằng các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
– Nghị quyết số 11-NQ/TW, của Bộ Chính trị “Về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (2007) có mục tiêu đến năm 2020 phụ nữ được nâng cao trình độ về mọi mặt, có trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; có việc làm, được cải thiện rõ rệt về đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần; tham gia ngày càng nhiều hơn công việc xã hội, bình đẳng trên mọi lĩnh vực; đóng góp ngày càng lớn hơn cho xã hội và gia đình. Phấn đấu để nước ta là một trong các quốc gia có thành tựu bình đẳng giới tiến bộ nhất của khu vực.
– Luật Bình đẳng giới (2006) Mục tiêu bình đẳng giới là xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế – xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình. Luật này cũng nêu rõ Chính sách của Nhà nước về bình đẳng giới là:
1. Bảo đảm bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình; hỗ trợ và tạo điều kiện cho nam, nữ phát huy khả năng, có cơ hội như nhau để tham gia vào quá trình phát triển và thụ hưởng thành quả của sự phát triển.
2. Bảo vệ, hỗ trợ người mẹ khi mang thai, sinh con và nuôi con nhỏ; tạo điều kiện để nam, nữ chia sẻ công việc gia đình.
3. Áp dụng những biện pháp thích hợp để xoá bỏ phong tục, tập quán lạc hậu cản trở thực hiện mục tiêu bình đẳng giới.
4. Khuyến khích cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân tham gia các hoạt động thúc đẩy bình đẳng giới.
5. Hỗ trợ hoạt động bình đẳng Giới tại vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, hỗ trợ những điều kiện cần thiết để nâng chỉ số phát triển giới đối với các ngành, lĩnh vực và địa phương mà chỉ số phát triển giới thấp hơn mức trung bình của cả nước.
– Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (2007): trong Luật này xác định Nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình gồm:
1. Kết hợp và thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng, chống bạo lực gia đình, lấy phòng ngừa là chính, chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục về gia đình, tư vấn, hoà giải phù hợp với truyền thống văn hoá, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
2. Hành vi bạo lực gia đình được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời theo quy định của pháp luật.
3. Nạn nhân bạo lực gia đình được bảo vệ, giúp đỡ kịp thời phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của họ và điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước; ưu tiên bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, người cao tuổi, người tàn tật và phụ nữ.
4. Phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cộng đồng, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình
– Nghị quyết Số: 28/NQ-CP Ban hành Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 – 2030: Trên cơ sở kế thừa Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 – 2020, tiếp tục thực hiện sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, góp phần đạt được các Mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030, Chính phủ ban hành Nghị quyết về Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 – 2030 với mục tiêu tổng quát: Tiếp tục thu hẹp khoảng cách giới, tạo điều kiện, cơ hội để phụ nữ và nam giới tham gia, thụ hưởng bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước gắn với giải pháp chủ yếu là tăng cường năng lực bộ máy quản lý nhà nước về bình đẳng giới các cấp; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra liên ngành việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới; xây dựng Cơ sở dữ liệu thống kê về giới của quốc gia.
3. Xác định trách nhiệm của người phụ nữ Việt Nam
Trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa, do yêu cầu công việc, nhiều phụ nữ phải đầu tư nhiều thời gian mới nâng cao được chuyên môn, nghiệp vụ. Nếu có thêm thời gian, công việc xã hội của họ sẽ tốt hơn, đem lại lợi ích cho nhiều người. Nếu phải gánh trách nhiệm vừa làm tốt bổn phận trong gia đình, vừa làm tốt công việc xã hội theo tinh thần “hai giỏi” thì nhiều phụ nữ phải gánh vác gấp đôi trách nhiệm, bởi họ không những làm việc để kiếm thu nhập, mà còn là người chủ yếu đảm đương các vai trò làm mẹ, làm vợ trong gia đình. Nếu xét tương quan thời gian lao động trong một ngày giữa phụ nữ và nam giới cho thấy, thời gian lao động của phụ nữ nhiều hơn, bởi họ phải làm các công việc gia đình nhiều hơn (thời gian làm việc trung bình của phụ nữ là 13 giờ/ngày trong khi của nam giới chỉ khoảng 9 giờ). Do vậy, phụ nữ ít có thời gian để học tập, nghỉ ngơi, giải trí và tham gia hoạt động xã hội so với nam giới.
Ngày nay cũng như nam giới, phụ nữ cần phải có kiến thức chiều sâu, trình độ ngoại ngữ, tin học, sự nhạy bén và lăn lộn thực tế cuộc sống… Trong khi đó, công việc gia đình vẫn là trách nhiệm nặng nề của người phụ nữ. Chính vì vậy, nhiều người phụ nữ giỏi giang, được học hành tử tế đã phải nhường bước cho chồng và lui về chăm sóc gia đình, chỉ cốt để giữ tròn hạnh phúc.
Vì những lý do gia đình mà nhiều phụ nữ chấp nhận tụt hậu, hoặc phấn đấu có chừng mực, chỉ ở mức độ hoàn thành công việc. Đó cũng là lý do cùng được đào tạo như nhau mà nam giới phát triển tốt hơn, có vị trí cao hơn, được học hành đào tạo chuyên môn cao hơn. Đó cũng là nguyên nhân tụt hậu của giới nữ trong giáo dục, đào tạo, trong khoa học, công nghệ và cả trong lãnh đạo và quản lý.
Hiện nay, tại không ít tổ chức, cơ quan, một số phụ nữ không được đề bạt làm lãnh đạo (ngay cả khi người phụ nữ này có trình độ và kinh nghiệm phù hợp), bởi mọi người vẫn cho rằng, chỉ có nam giới mới nên làm việc “đại sự”, phụ nữ thì chỉ nên làm công việc nhẹ nhàng để có thời gian dành cho gia đình. Tư tưởng này không chỉ ở người dân, mà cả trong lãnh đạo, đặc biệt ngay cả trong một bộ phận phụ nữ cũng có định kiến với chính giới mình. Ngoài hiện tượng “níu kéo áo nhau” thấy ở một số phụ nữ, thì vấn đề ở đây vẫn là do định kiến giới, coi nam giới ở vị trí lãnh đạo tốt hơn là phụ nữ. Vì vậy, trong các kỳ bầu cử, những người gạt phụ nữ khỏi danh sách bầu cử có khi không phải là nam, mà lại là nữ. Không ủng hộ phụ nữ làm công tác xã hội là một trong những nguyên nhân dẫn tới tỷ lệ phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý còn thấp, chưa tương xứng với năng lực và sự phát triển của lực lượng lao động nữ. Phụ nữ chiếm tỷ lệ không thua kém trong nhiều ngành nghề và học tập trong các trường, lớp đào tạo (đại học: 36,24%; cao đẳng: 50,01%), nhưng số nữ tham gia lãnh đạo, quản lý đạt tỷ lệ thấp. Nữ lãnh đạo, quản lý ở cấp Trung ương, cấp vụ trở lên và cán bộ nữ chủ chốt cấp tỉnh hiện nay hầu hết ở độ tuổi trên 50; tỷ lệ cán bộ nữ cấp phòng ở huyện, quận giảm; tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XII thấp hơn tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XI (khóa XI là 27,31%, khóa XII là 25,76%). Tỷ lệ nữ đại biểu QH khóa XIV đạt 26,72% tỉ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XV là 30,26%;
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, giữa phụ nữ và nam giới không có sự khác biệt về mặt xã hội, mà chỉ có sự khác biệt về mặt sinh học. Tuy nhiên, trong thực tế các định kiến giới vẫn còn tồn tại và có thể gặp ở nhiều nhóm xã hội: cả phụ nữ và nam giới, cả trong cán bộ lãnh đạo – những người có vai trò quyết định đối với việc hoạch định và thực hiện chính sách đối với phụ nữ – và người dân.
Công việc gia đình và thiên chức làm mẹ cũng gây bất lợi cho phụ nữ trong tuyển dụng lao động. Theo Sở Lao động – Thương và Xã hội Thành phố Hà Nội, cho biết, từ đầu năm đến nay, chỉ có 4 trong số hàng trăm doanh nghiệp ở địa bàn đăng ký sử dụng nhiều lao động nữ. Đó mới chỉ là đăng ký. Vì nhận một phụ nữ vào làm, sự đóng góp của phụ nữ cho lợi nhuận của doanh nghiệp chưa thấy đâu đã thấy phải chi rất nhiều khoản như: chế độ thai sản, giờ cho con bú, xây nhà vệ sinh kinh nguyệt… Vì điều này mà ngay cả chủ doanh nghiệp là nữ cũng rất ngại khi nhận lao động nữ. Mặc dù ở những xí nghiệp đông lao động nữ, doanh nghiệp đó được miễn giảm thuế thu nhập và được tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi. Nhưng vấn đề miễn, giảm thuế và tiếp cận vốn ưu đãi không phải doanh nghiệp nào cũng biết được thủ tục để tiếp cận. Trong mục tuyển dụng lao động đăng trên các báo cho thấy, nhiều công ty chỉ tuyển lao động nam mặc dù công việc đó cũng phù hợp với phụ nữ, hoặc có những thông báo tuyển dụng cùng một công việc như nhau, ngành học như nhau, nhưng yêu cầu đối với nữ phải có bằng tốt nghiệp loại khá, giỏi, còn nam chỉ cần tốt nghiệp loại trung bình.
4. Giải pháp góp phần xóa bỏ rào cản định kiến Giới
Từ thực trạng trên, việc xóa bỏ định kiến giới nói chung là một việc cần làm, trong đó xóa bỏ định kiến giới coi việc gia đình, nội trợ là trách nhiệm của phụ nữ cần phải sớm được xóa bỏ với một số giải pháp như sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về bình đẳng giới cho người dân, cộng đồng và xã hội thông qua công tác tuyên truyền về giới góp phần thay đổi nhận thức về giới. Những hình ảnh phụ nữ gắn với vai trò xã hội, nam giới làm công việc gia đình đang dần làm thay đổi nhận thức trong công chúng rằng, nam hoặc nữ đều có thể làm bất cứ công việc gì phù hợp với khả năng của họ nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội mà không có sự phân định rõ ràng cho một giới nào khác. Từ nhận thức giới được thay đổi thông qua hình tượng giới, hành vi giới sẽ thay đổi dần theo hướng tiến bộ bình đẳng nam nữ. Một mặt chúng ta khẳng định khả năng trí tuệ của hai giới như nhau nhưng mặt khác chúng ta cũng thừa nhận sự khác biệt về giới tính để đưa phụ nữ vào đúng vị trí, làm tốt chức năng của mình. Phụ nữ ngày nay trong xu thế phát triển sẽ ngày càng bộc lộ những phẩm chất mới. Tất cả những phẩm chất ấy cần được phát huy, nếu không bị định kiến trói buộc thì sẽ trở thành sự tiến bộ, phát triển và họ sẽ đóng góp được rất nhiều cho sự phát triển của đất nước.
Thứ hai, để có thể phát huy được vai trò và khả năng của phụ nữ, các dịch vụ xã hội dành cho gia đình cần được phát triển một cách rộng rãi và phù hợp với thu nhập để phụ nữ dễ dàng được tiếp cận. Tạo điều kiện cho phụ nữ đầu tư sản xuất, kinh doanh, cải thiện thu nhập, có tiếng nói trong gia đình và từ đó ít lệ thuộc hơn vào người chồng. Khắc phục về cơ bản tình trạng bất bình đẳng trong một số lĩnh vực như: quyền sử dụng đất, sở hữu nhà ở, các phúc lợi xã hội, chế độ bảo hiểm …
Thứ ba, phụ nữ cần được giảm bớt gánh nặng gia đình. Muốn vậy, không chỉ chia sẻ, nam giới cần phải tham gia vào công việc gia đình cùng với phụ nữ. Tuy nhiên, trong khi bình đẳng giới đang là một quá trình thì việc nam giới chia sẻ công việc gia đình với phụ nữ cũng có một ý nghĩa to lớn. Chính sự chia sẻ và cảm thông của người chồng đã làm cho nhiều người phụ nữ đạt được thành công trong sự nghiệp.
Thứ tư, lãnh đạo ở những cơ quan, đơn vị có nhiều phụ nữ cần được nâng cao nhận thức giới để từ đó có được công bằng giới trong tuyển dụng, đào tạo, đề bạt. Đặc biệt, trên phạm vi toàn xã hội, cần tạo điều kiện để người phụ nữ có thời gian làm công việc gia đình, không nên coi phụ nữ cũng như nam giới trong việc phân công, đòi hỏi, yêu cầu mà không tính đến việc người phụ nữ phải thực hiện thiên chức làm mẹ.
Thứ năm, đối với bản thân phụ nữ, cũng cần có sự kết hợp hài hòa chức năng xã hội và gia đình. Bởi đây là nét đặc trưng của phụ nữ nước ta. Là phụ nữ thường phải có gia đình, phải sinh con và nuôi dạy con. Đối với phụ nữ, dung hòa giữa gia đình và công việc xã hội là điều không mấy dễ dàng. Tuy nhiên đã có nhiều phụ nữ biết cách giải quyết tốt hai chức năng này và đã trở thành người mẹ hiền, vợ đảm, lại là nhà quản lý giỏi, nhà khoa học thành đạt. Kinh nghiệm của họ mà nhiều phụ nữ cần học tập là, cố gắng thu xếp một cách khoa học để vừa có thời gian cho gia đình, vừa hoàn thành tốt công việc xã hội.
Các giải pháp trên đây tưởng chừng không khó khi thực hiện, nhưng thực sự đây là cả một vấn đề đòi hỏi phải có sự thống nhất cao trong tư tưởng và hành động của các nhà hoạch định chính sách, lãnh đạo, quản lý, của người dân, đặc biệt của cả nam và nữ. Bởi vì, như Bác Hồ đã từng nói, trọng trai, khinh gái là thói quen mấy ngàn năm để lại, nó ăn sâu trong nếp nghĩ việc làm của người dân, giải phóng phụ nữ đó là cuộc cách mạng to và khó, cần làm kiên trì, bền bỉ, lâu dài và quyết liệt./.
TS. Vũ Thị Hồng Khanh- HVCTKV1-HVCTQGHCM