(DHVO). Chúng tôi về xã Duy Nhất, Vũ Thư, Thái Bình dự Lễ hội Thu chùa Keo 2019. Đây là ngôi chùa cổ đẹp bậc nhất Việt Nam, với kiến trúc và mỹ thuật độc đáo. Năm 2012, chùa Keo Thái Bình đã được xếp hạng là Di tích Quốc gia đặc biệt. Năm 2017, lễ hội chùa Keo cũng được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia.
Chùa Keo Thái Bình có tuổi đời hơn 400 năm, vẫn giữ gần như nguyên vẹn kiến trúc cổ kính đặc trưng của các ngôi chùa Việt. Chùa gồm 21 công trình, với 157 gian trên khu đất có diện tích 58.000m2. Hiện nay toàn bộ kiến trúc chùa Keo còn 17 công trình với 128 gian phân bố trên 2022m2 đó là các công trình như: tam quan, chùa phật, điện thánh, gác chuông, hành lang và khu tăng xa, vườn tháp…
Hàng năm chùa Keo Thái Bình có hai kỳ hội đó là hội Xuân được diễn ra vào ngày 4 tháng giêng âm lịch với các trò thi bắt vịt, ném pháo, nấu cơm… và Hội Thu diễn ra vào các ngày13,14,15 tháng 9 âm lịch mang đậm tính chất hội lịch sử gắn liền với cuộc đời của sư Không Lộ. Ngoài việc tế lễ, rước kiệu hội còn tổ chức thi bơi chải trên sông và các nghi thức bơi chải trên cạn chầu Thánh, múa ếch vồ…
Chùa Keo tên thứ nhất là Trần Quang Tự thuộc địa phận Xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, Tỉnh Thái Bình.
Chùa Keo là nơi thờ phật và đền thánh thờ đức Dương Không Lộ – vị Đại sư thời nhà Lý có công dựng chùa.
Theo sử sách, thiền sư ho Dương, húy là Minh Nghiêm, hiệu là Khổng lộ, người làng Giao Thủy phủ Hà Thanh, nối đời làm nghề đánh cá, Mẹ người họ Nguyễn người ở ấp hán lý, huyện Vĩnh Lai, phủ Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Thiền sư sinh ngày 14/9 năm Bính Thân (1016), xuất thân làm nghề chài lưới song đức Khổng Lộ là người có chí hướng mộ đạo thiên, năm 29 tuổi đi tu, đến năm 44 tuổi (1059) sư tu tại chùa Hà Trạch cùng các sự Đạo Hạnh, giác Hải kết bạn chuyên tâm nghiên cứu đạo thiền.
Năm 1060 ba ông sang Tây Trúc để tu luyện về đạo phật, năm 1061 thời Vua Lý Thánh Tông, sư về nước, dựng chùa Nghiêm Quang – tiền thân chùa Thần Quang ngày nay.
Từ đó ông chu du khắp vùng rộng lớn của châu thổ Bắc bộ, dựng chùa, truyền bá đạo phật và được suy tôn là vị tổ thứ 9 của phái Thiền Việt Nam, ông đã có công chữa bệnh cho vua Lý Thánh Tông và được Vua phong cho làm Quốc Sư triều Lý. Ngày 3 tháng 6 năm Giáp Tuất – 1094 (Đời Vua Lý Nhân Tông ) đức Dương Khổng Lý Hóa, nhà Vua xuống chiếu đổi tền chùa Nghiêm Quang thành chàu Thần Quang.
Năm 1611, do sông Hồng sạt lở, chùa bị bão lũ làm đổ, nửa làng Dung Nhuệ phiêu bạt sang tả ngạn sông Hồng. Thời đó quan Tuấn Thọ Hầu Hoàng Nhân Dũng cùng vợ là bà Lại thị Ngọc Lễ xin chúa Trịnh Giang cho mời Cường Dũng Hầu Nguyễn Văn Trụ vẽ kiểu, vận động cả nước góp công, góp của xây lại chùa. Qua 19 năm chuẩn bị, 28 tháng thi công, đến tháng 11 năm Nhâm Thân (1632) chùa Keo được tái tạo. Qua nhiều lần tu bổ, tôn tạo, chùa Keo vẫn giữ nguyên bản sắc kiến trúc độc đáo có từ thời Lê Trung Hưng (thế kỷ 17).
Chùa ông Hộ với kiến trúc trạm khắc từ thế kỷ thứ 17, những nét trạm khắc thủ công sắc nét được tạo nên bởi những bàn tay nghệ nhân lâu đời đã tồn tại khoảng hơn 400 năm với đường nét trạm khắc nghệ thuật tinh tế.
Hai dãy hành lang dẫn ra nối từ chùa ông Hộ đến gác chuông thẳng tắp được thiết kế như bao bọc quanh chùa như bức tường vây kín đáo gọi là dẫy hành lang cánh tả. Dãy hành lãng cánh hữu, các dãy hành lang bao bọc xung quanh chùa tạo nên một khung cảnh cho một kiến trúc “Tiên Phật, Hậu Thần”. Hành lang lối đi bên ngoài tường vây nằm bên hồ nước trong xanh và hàng cây cổ thụ đã có từ lâu đời tạo nên một khung cảnh yên bình, thư thái; con người như được thoát tục trước cảnh đẹp thiên nhiên ấy.
Nét cổ kính của Gác Chuông ba tầng.
Một số hình ảnh của chùa Keo (Thái Bình):
Lối vào chùa Keo.
Hai dãy hành lang dẫn từ chùa ông Hộ đến gác chuông thẳng tắp được thiết kế như bao bọc quanh chùa như bức tường vây kín đáo (dẫy hành lang cánh tả)
Dãy hành lãng cánh hữu, các dãy hành lang bao bọc xung quanh chùa tạo nên một khung cảnh (cho một kiến trúc “Tiên Phật, Hậu Thần”)
Hành lang lối đi bên ngoài tường vây nằm bên hồ nước trong xanh và hàng cây cổ thụ đã có từ lâu đời.
Một góc của chùa Keo.
Gác Chuông ba tầng được xây dựng bằng gỗ trên nền móng của những viên đá tảng chạm khắc hoa văn tinh tế.
Bài và ảnh: Trần Hồng.