…Cam kết việc bảo đảm quyền của người khuyết tật và trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân trong việc hỗ trợ, tạo cơ hội bình đẳng, thúc đẩy người khuyết tật phát huy năng lực, vươn lên hoà nhập cộng đồng đã được Việt Nam thực hiện tích cực trong thời gian qua. Tuy nhiên, sau 15 năm đi vào thực hiện Luật NKT-2010 đã bộc lộ một số nội dung bất cập so với sự phát triển kinh tế – xã hội, hệ thống văn bản pháp luật hiện hành và yêu cầu của CRPD. Vì vậy, việc nghiên cứu, xem xét sửa đổi bổ sung Luật NKT-2010 trong giai đoạn này là rất cần thiết…
I. ĐÁNH GIÁ VỀ LUẬT NGƯỜI KHUYẾT TẬT SAU 15 NĂM THỰC HIỆN
Sau khi tham gia Công ước quốc tế về các quyền của người khuyết tật năm 2007 của Liên Hợp quốc (CRPD), việc nội luật hóa các quy định của CRPD vào pháp luật Việt Nam đã được triển khai. Trong đó, Luật Người khuyết tật năm 2010 (Luật NKT-2010) là văn bản quy phạm pháp luật quan trọng tạo ra khuôn khổ pháp lý quy định về lĩnh vực người khuyết tật, với mục tiêu xây dựng xã hội nhân văn, công bằng và hòa nhập. 15 năm qua, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ quan trọng trong việc bảo vệ quyền, nâng cao chất lượng cuộc sống và tạo điều kiện cho người khuyết tật phát huy tối đa khả năng của mình vươn lên trong cuộc sống, đồng thời khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia hỗ trợ người khuyết tật.
- Hoàn thiện Khung pháp lý cơ bản về người khuyết tật
Khung pháp lý cơ bản bao gồm các nguyên tắc Nhà nước tạo điều kiện để người khuyết tật tham gia bình đẳng vào xã hội, được tiếp cận chăm sóc sức khỏe, giáo dục, việc làm và được hỗ trợ hòa nhập, cùng với việc quy định trách nhiệm của Nhà nước, các tổ chức, cá nhân trong việc trợ giúp người khuyết tật và các hành vi bị nghiêm cấm. Luật quy định rõ về việc xác định dạng và mức độ khuyết tật, cùng các chính sách ưu đãi, hỗ trợ cụ thể cho người khuyết tật.
Nguyên tắc chung
Pháp luật bảo đảm quyền của người khuyết tật được tham gia bình đẳng vào các hoạt động xã hội, sống độc lập, hòa nhập cộng đồng. Nhà nước bố trí ngân sách hàng năm, lồng ghép chính sách về người khuyết tật trong chính sách phát triển kinh tế – xã hội, tạo điều kiện để phòng ngừa, giảm thiểu khuyết tật. Đối với người khuyết tật là thực hiện các nghĩa vụ công dân theo quy định, đồng thời được Nhà nước, xã hội trợ giúp và hỗ trợ theo quy định.
Các chính sách và biện pháp hỗ trợ
Người khuyết tật được chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, được cung cấp phương tiện, tài liệu hỗ trợ phù hợp với dạng tật; được học tập, nhập học ở độ tuổi cao hơn, miễn giảm học phí, được hỗ trợ phương tiện, tài liệu học tập và tư vấn học nghề miễn phí. Nhà nước tạo điều kiện để người khuyết tật học nghề và tìm việc làm phù hợp với khả năng, được ưu tiên tiếp cận các công trình công cộng, phương tiện giao thông, thông tin và dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch. Người khuyết tật nặng, đặc biệt nặng được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng và các chính sách trợ giúp khác, theo quy định của các văn bản hướng dẫn thi hành được bổ sung phù hợp, kịp thời theo sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Các quy định khác
Xác định dạng và mức độ khuyết tật, quy định về Hội đồng xác định mức độ khuyết tật, quy trình xác định và nội dung của giấy xác nhận khuyết tật và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân, khuyến khích hoạt động trợ giúp người khuyết tật; tạo điều kiện cho các tổ chức của người khuyết tật hoạt động, đóng góp có hiệu quả tích cực vào việc bảo vệ quyền và hỗ trợ người khuyết tật; quy định cụ thể các hành vi bị nghiêm cấm đối với người khuyết tật.
- Những thành tựu sau 15 năm thực hiện Luật NKT-2010
Thay đổi nhận thức và hòa nhập cộng đồng
Các chính sách hỗ trợ giáo dục, y tế, lao động, việc làm cho người khuyết tật, cùng với quy định cấm kỳ thị, phân biệt đối xử và đưa ra các quy định về môi trường hòa nhập đã làm thay đổi nhận thức của cộng đồng, coi người khuyết tật là một bộ phận của xã hội, từ đó tạo điều kiện để họ được sống độc lập, phát huy được khả năng và giúp người khuyết tật tự tin, làm chủ cuộc sống tham gia vào các hoạt động trong xã hội.
Nâng cao vị thế và quyền lợi của người khuyết tật
Luật NKT-2010 khẳng định quyền bình đẳng của người khuyết tật, bảo đảm họ có cơ hội trong mọi lĩnh vực đời sống từ học tập, việc làm đến tham gia hoạt động chính trị, xã hội. Đồng thời, Nhà nước ban hành các chính sách hỗ trợ người khuyết tật về trợ cấp xã hội, kinh phí đào tạo, nghiên cứu về phục hồi chức năng, sản xuất dụng cụ trợ giúp và quy định rõ trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền trong việc phê duyệt thiết kế và xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật, đảm bảo tính tiếp cận cho người khuyết tật tham gia các hoạt động công cộng.
Vai trò của của Nhà nước
Xây dựng hoàn thiện khuôn khổ pháp luật thông qua việc ban hành các đạo luật, nghị định, thông tư… hướng dẫn quy định quyền, nghĩa vụ của Nhà nước, tổ chức, gia đình và người khuyết tật cùng các quy định về chính sách hỗ trợ trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, việc làm, văn hóa, thể thao cho người khuyết tật. Nhà nước tổ chức triển khai hiệu quả các chính sách đã ban hành, đảm bảo người khuyết tật được hưởng các quyền lợi về chăm sóc sức khỏe, học tập, đào tạo nghề, tìm kiếm việc làm và tham gia vào các hoạt động xã hội. Nhà nước chủ trì, phối hợp với các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế và cá nhân để thực hiện hoạt động trợ giúp, giải quyết các vấn đề liên quan đến đời sống và bảo vệ quyền lợi của người khuyết tật trước nguy cơ bị phân biệt đối xử hoặc vi phạm pháp luật. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc thay đổi nhận thức của xã hội, thông qua các kênh thông tin, công nghệ số và các hoạt động xã hội để nâng cao nhận thức và hỗ trợ người khuyết tật tiếp cận với cuộc sống ngày một phát triển.
Sau 15 năm thực hiện, Luật NKT-2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã thể chế hóa nhiều quy định cơ bản của CRPD, bao gồm các nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt, tiếp cận và hòa nhập; bảo đảm quyền của người khuyết tật trên các lĩnh vực y tế, giáo dục, lao động, giao thông, văn hoá, thể thao và trợ giúp người khuyết tật theo các mức độ và nhóm khuyết tật. Tiếng nói và sự tham gia của người khuyết tật vào các vấn đề xã hội đã được ghi nhận. Người khuyết tật được công nhận là chủ thể xã hội, có quyền tham gia vào các hoạt động xã hội mà không chỉ là đối tượng nhận trợ giúp của cộng đồng; tạo môi trường hòa nhập tôn trọng sự khác biệt, giúp người khuyết tật tự tin tham gia vào các hoạt động trong cuộc sống. Đồng thời, Việt Nam có các chương trình hành động về bảo đảm quyền của người khuyết tật qua các giai đoạn, trong đó yêu cầu các bộ, ngành, địa phương có trách nhiệm lồng ghép nội dung quyền của người khuyết tật vào kế hoạch hàng năm. Hiện nay là: Quyết định 753/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch tổ chức thực hiện Chỉ thị số 39-CT/TW về tăng cường lãnh đạo của Đảng đối với công tác người khuyết tật; Quyết định số 1190/QĐ-TTg ngày 05/8/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2021-2030.
Như vậy, có thể thấy cam kết việc bảo đảm quyền của người khuyết tật và trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân trong việc hỗ trợ, tạo cơ hội bình đẳng, thúc đẩy người khuyết tật phát huy năng lực, vươn lên hoà nhập cộng đồng đã được Việt Nam thực hiện tích cực trong thời gian qua. Tuy nhiên, sau 15 năm đi vào thực hiện Luật NKT-2010 đã bộc lộ một số nội dung bất cập so với sự phát triển kinh tế – xã hội, hệ thống văn bản pháp luật hiện hành và một số yêu cầu của CRPD. Vì vậy, việc nghiên cứu, xem xét sửa đổi bổ sung Luật NKT-2010 trong giai đoạn này là rất cần thiết.
- Những hạn chế, bất cập của Luật NKT-2010
(i) Chưa quy định rõ ràng về chính sách bảo vệ, hỗ trợ đặc biệt cho phụ nữ và trẻ em khuyết tật, những đối tượng yếu thế trong nhóm yếu thế trong các lĩnh vực phòng chống bạo lực và các vấn đề xã hội khác.
(ii) Chính sách của Nhà nước về người khuyết tật cần điều chỉnh phù hợp với mức độ phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam hiện tại và tương lai.
(iii) Nhiều điều khoản trong Luật hiện nay chỉ mang tính khuyến nghị, thiếu các thước đo, thang điểm cùng chế tài pháp lý cụ thể, dẫn đến việc áp dụng trên thực tế gặp nhiều bất cập và không hiệu quả.
(iv) Luật NKT-2010 đã bộc lộ một số điểm bất cập so với yêu cầu, khuyến nghị của CRPD về quyền tiếp cận, tham gia toàn diện vào đời sống xã hội của người khuyết tật.
(v) Việc chậm trễ trong triển khai ứng dụng công nghệ số và trí tuệ nhân tạo cho người khuyết tật, làm giảm hiệu quả thực thi pháp luật trên thực tế hiện nay.
II. MỘT SỐ NỘI DUNG ĐỀ XUẤT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT NKT-2010
- Chính sách đảm bảo hỗ trợ đặc biệt đối với phụ nữ khuyết tật
Luật NKT-2010 đã khẳng định phần cơ bản chính sách ưu tiên hỗ trợ đối với trẻ em khuyết tật, tập trung vào các chính sách bảo trợ xã hội (khoản 3, Điều 5; khoản 2, Điều 44 Luật NKT-2010); nhưng chưa quy định về đảm bảo hỗ trợ đặc biệt đối với phụ nữ khuyết tật, đây là đối tượng có nguy cơ bị bạo lực, bạo lực gia đình cao trên thực tế. Nội dung này cũng phù hợp với CRPD (Điều 6 và Điều 7) và các quy định trong Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022 (Điều 22).
*Đề xuất: Bổ sung vào Điều 5 Luật NKT-2010, về biện pháp ưu tiên bảo vệ, hỗ trợ đối tượng đặc biệt là phụ nữ, trẻ em khuyết tật trong trường hợp khẩn cấp và nguồn lực ứng phó, hỗ trợ di chuyển, cung cấp dịch vụ thiết yếu và đào tạo cán bộ nhận diện và ứng phó với các tình huống đặc biệt.
- Liên quan đến một số chính sách về người khuyết tật
2.1. Về dạng tật
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 3 Luật NKT-2010 có phân loại 6 dạng khuyết tật (vận động; nghe, nói; nhìn; thần kinh, tâm thần; trí tuệ và khuyết tật khác). Việc phân loại như hiện nay thì tự kỷ không phải là một dạng khuyết tật riêng biệt. Theo Thông tư số 01/2019/TT-BLĐTBXH về Hội đồng xác định mức độ khuyết tật, người có biểu hiện rối loạn phổ tự kỷ, có xác nhận của cơ sở y tế cấp tỉnh, sẽ được xếp chung vào dạng khuyết tật khác. Như vậy, thực tế gặp vướng mắc trong lĩnh vực chuyên môn và áp dụng chính sách hoặc dẫn đến việc tùy tiện cho rằng tự kỷ là một dạng khuyết tật không nghiêm trọng. Đã có địa phương còn từ chối làm hồ sơ công nhận khuyết tật cho người tự kỷ, vì cho rằng tự kỷ là một bệnh có thể chữa khỏi mà không phải một dạng khuyết tật.
*Đề xuất: Bổ sung vào khoản 1, Điều 3 Luật NKT-2010 dạng tật “tự kỷ” là một dạng tật riêng với các dạng “khuyết tật khác” để đảm bảo các chính sách cụ thể trong lĩnh vực y tế, giáo dục, trợ cấp.
2.2. Về mức độ khuyết tật
Theo quy định khoản 2, Điều 3, Luật NKT-2010 khuyết tật chia thành 03 mức độ (đặc biệt nặng, nặng và nhẹ). Người được xác định mức độ khuyết tật nhẹ khi Hội đồng giám định y khoa kết luận “có khả năng tự phục vụ sinh hoạt hoặc suy giảm khả năng lao động dưới 61%” (điểm c, khoản 3, Điều 4, Nghị định 28/2012/NĐ-CP). Tuy nhiên Bộ Luật Lao động năm 2019 (BLLĐ-2019) lại xếp “những người lao động khuyết tật nhẹ có tỷ lệ suy giảm khả năng lao động từ 51% trở lên” vào đối tượng cần được đặc biệt bảo vệ về sức khỏe và an toàn lao động, ngang với những người lao động ở mức độ khuyết tật đặc biệt nặng, khuyết tật nặng. Điều 160 BLLĐ-2019 đã nghiêm cấm người sử dụng lao động, sử dụng lao động là người khuyết tật làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm đối với ba đối tượng (người khuyết tật nhẹ suy giảm khả năng lao động từ 51% trở lên; khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng). Như vậy, đã có sự khác nhau của các luật hiện hành liên quan đến “mức độ khuyết tật”. Hiện nay, người khuyết tật đặc biệt nặng và nặng được hưởng các chính sách về bảo trợ xã hội, được cấp bảo hiểm y tế miễn phí, được trợ giúp pháp lý miễn phí và một loạt các chính sách khác. Người khuyết tật ở mức độ nhẹ không được hưởng những chính sách nói trên.
*Đề xuất: Sửa đổi quy định về mức độ khuyết tật của người khuyết tật tại Luật NKT-2010 (khoản 2, Điều 3) theo hướng chia nhỏ chi tiết hơn mức độ khuyết tật thành 04 mức: đặc biệt nặng; nặng; trung bình và nhẹ.
2.3. Cấp thẻ bảo hiểm y tế (BHYT) cho người khuyết tật
Theo Luật Bảo hiểm Y tế, chỉ những người khuyết tật nặng và đặc biệt nặng mới được cấp thẻ BHYT miễn phí. Như vậy, người khuyết tật nhẹ vốn thuộc nhóm dễ bị tổn thương nhưng lại chưa được Nhà nước cấp hoặc hỗ trợ mua thẻ BHYT, nếu họ không thuộc các đối tượng (như hộ nghèo, hộ cận nghèo,…) hoặc không thuộc diện mua BHYT bắt buộc theo cơ sở lao động, thì họ không được hưởng bất kỳ chính sách ưu tiên nào về BHYT. Thực tế, nhu cầu về khám bệnh, chữa bệnh của người khuyết tật là rất cao và Việt Nam vẫn nhiều người khuyết tật phải tự mua BHYT và phải chi trả phí dịch vụ khám chữa bệnh.
*Đề xuất: Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 22 Luật NKT-2010 quy định về mặt nguyên tắc chính sách cấp thẻ BHYT cho người khuyết tật. Trong đó có thể quy định việc cấp BHYT miễn phí cho người khuyết tật nặng và đặc biệt nặng và Nhà nước có chính sách hỗ trợ NKT nhẹ (và trung bình) được ưu tiên mua BHYT và hưởng ưu đãi chi phí khám bệnh, chữa bệnh với mức dành cho hộ cận nghèo.
2.4. Về quyền trợ giúp pháp lý (TGPL) của người khuyết tật
Quyền TGPL của người khuyết tật được quy định trong Luật NKT-2010 và Luật TGPL năm 2017 nhưng 02 văn bản này chưa thống nhất. Cụ thể:
(i) Luật NKT-2010 quy định người khuyết tật được bảo đảm thực hiện quyền trợ giúp pháp lý, Luật TGPL năm 2017 quy định người khuyết tật có khó khăn về tài chính là một trong những đối tượng được trợ giúp pháp lý.
(ii) Điểm d khoản 1 Điều 4 Luật NKT-2010 quy định người khuyết tật được bảo đảm thực hiện quyền TGPL phù hợp với dạng tật và mức độ khuyết tật; Luật TGPL năm 2017 chưa đề cập và phân biệt cơ chế trợ giúp pháp lý cho từng dạng tật và mức độ khuyết tật.
*Đề xuất: Cần sửa đổi, bổ sung quy định này bảo đảm đồng bộ, thống nhất về các nội dung quyền TGPL của người khuyết tật. Theo hướng sửa đổi Điểm d, khoản 1 Điều 4 Luật NKT-2010 quy định cụ thể “tất cả người khuyết tật đều được trợ giúp pháp lý” mà không cần thêm điều kiện theo dạng tật, mức độ khuyết tật và có khó khăn về tài chính. Như vậy, sẽ bảo đảm tốt hơn quyền và phù hợp với điều kiện thực tế của người khuyết tật hiện nay.
- Hành vi bị nghiêm cấm trong Luật người khuyết tật
Với quy định 07 nhóm các hành vi bị nghiêm cấm (Điều 14 của Luật NKT), trong thực tế còn tình trạng Cán bộ phụ trách lao động – thương binh và xã hội cấp xã, chỉ quan sát bằng mắt đối với tình trạng thân thể người khuyết tật, để từ chối nhận đơn hoặc viện lý do khác không nhận hồ sơ xác định mức độ khuyết tật. Như vậy, nhóm hành vi cấm liên quan đến xác định mức độ khuyết tật còn thiếu quy định, nhằm ngăn chặn hành vi từ chối nhận hồ sơ đề nghị xác định mức độ khuyết tật hoặc không cấp Giấy xác nhận khuyết tật, đối với người khuyết tật ở mức độ nhẹ. Việc rà soát để có điều chỉnh, bổ sung danh mục hành vi cấm trong Luật NKT-2010 cũng cần được xem là một trong những vấn đề cấp thiết.
*Đề xuất: Bổ sung vào khoản 7, Điều 14 của Luật NKT-2010 cấm hành vi: “Từ chối nhận hồ sơ xác định mức độ khuyết tật và cấp Giấy xác nhận khuyết tật theo quy định pháp luật.”
- Bổ sung các quy định về chế tài pháp lý
Nhiều điều khoản trong Luật NKT-2010 chỉ mang tính khuyến nghị, thiếu các thước đo, thang điểm cùng chế tài pháp lý cụ thể, dẫn đến việc áp dụng trên thực tế gặp nhiều bất cập và không có hiệu quả.
4.1. Quy định về tuyển lao động là người khuyết tật
Khoản 1 Điều 35 Luật NKT-2010 quy định: “Nhà nước khuyến khích cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp nhận người khuyết tật vào làm việc. Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động là người khuyết tật được hưởng chính sách ưu tiên theo quy định tại Điều 34 của Luật này”. Vì thế, doanh nghiệp sẽ tùy theo điều kiện, khả năng, nhu cầu của mình mà quyết định có nhận người khuyết tật vào làm việc hay không. Nếu doanh nghiệp không sử dụng lao động là người khuyết tật thì cũng không cơ quan nhà nước nào có thể xử lý được. Thực tế, dù có chính sách khuyến khích nhưng doanh nghiệp vẫn không muốn nhận người khuyết tật vào làm việc. Ở nhiều nước phát triển, pháp luật vẫn phải ấn định nghĩa vụ cho doanh nghiệp nhận người lao động khuyết tật và có các chế tài kèm theo.
*Đề xuất:
(i) Sửa đổi, bổ sung Điều 34 Luật NKT-2010 theo hướng điều chỉnh hoặc bỏ việc áp tỷ lệ phần trăm đối với số lượng người khuyết tật được nhận vào làm việc tại các doanh nghiệp; Nhà nước hỗ trợ tất cả các cơ sở sản xuất – kinh doanh có người lao động khuyết tật làm việc với các hình thức, mức độ hỗ trợ và chính sách ưu đãi khác nhau để tạo sự công bằng;
(ii) Sửa đổi, bổ sung Điều 35 Luật NKT-2010 theo hướng quy định rõ trách nhiệm phải nhận người khuyết tật đối với doanh nghiệp và các chế tài phù hợp kèm theo.
4.2. Quy định chế tài về hành vi vi phạm quyền được lao động và việc làm của người khuyết tật
Pháp luật Việt Nam đã có quy định các chế tài xử phạt đối với hành vi vi phạm quyền của người khuyết tật. Nhưng chưa có một chế tài nào cho hành vi vi phạm quyền được lao động và việc làm của người khuyết tật. Việc không quy định chế tài xử phạt, dẫn đến thực tế chưa có cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết các khiếu nại về việc vi phạm quyền được lao động và việc làm của người khuyết tật. Người khuyết tật không thể khiếu nại, tố cáo hay bằng các biện pháp khác để tự bảo vệ quyền và lợi ích của mình khi bị vi phạm.
*Đề xuất.
(i) Bổ sung quy định pháp luật về hành vi vi phạm và chế tài xử phạt đối với các hành vi vi phạm quyền được bảo trợ xã hội của người khuyết tật (phân biệt đối xử với người khuyết tật trong tuyển dụng việc làm, trả lương, thăng chức…) coi đây là những hành vi bị nghiêm cấm.
(ii) Bổ sung quy định về quyền khiếu nại của người khuyết tật và cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với các hành vi vi phạm quyền được lao động và việc làm của người khuyết tật.
4.3. Quy định chế độ ưu đãi trong lĩnh vực lao động và việc làm
Luật Người khuyết tật chưa quy định chế độ ưu đãi trong lĩnh vực lao động và việc làm cho những người trực tiếp chăm sóc người khuyết tật nặng. Khi trong một gia đình có người khuyết tật nặng, phải có ít nhất một người không thể tham gia lao động bình thường để có thu nhập do phải chăm sóc, hỗ trợ cho người khuyết tật. Điều 44 Luật NKT-2010 mới chỉ quy định về việc hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng cho gia đình có người khuyết tật đặc biệt nặng và người nhận nuôi dưỡng, chăm sóc người khuyết tật đặc biệt nặng, mà chưa có quy định về chế độ ưu đãi trong lĩnh vực lao động và việc làm cho những người phải trực tiếp chăm sóc người khuyết tật. Mặt khác, mức hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng cho gia đình có người khuyết tật nặng còn thấp, chưa đủ để bảo đảm trang trải các nhu cầu cơ bản của người khuyết tật nặng, trong khi những người nuôi dưỡng, chăm sóc người khuyết tật nặng bị hạn chế cơ hội làm việc, không có thu nhập ổn định.
*Đề xuất. Bổ sung quy định về chế độ ưu đãi cho các hộ gia đình có người khuyết tật nặng, như: giảm giờ làm việc cho người là lao động chính trong hộ gia đình có người khuyết tật nặng; trường hợp do phải chăm sóc người khuyết tật mà người chăm sóc phải nghỉ làm, thì phải được hưởng chế độ bảo hiểm thất nghiệp…
- Một số nội dung bất cấp so với yêu cầu của CRPD
5.1. Về thuật ngữ “giáo dục hòa nhập”
Theo khoản 4, Điều 2 Luật NKT-2010 “Giáo dục hòa nhập là phương thức giáo dục chung người khuyết tật với người không khuyết tật trong cơ sở giáo dục”. Luật Giáo dục năm 2019 đã có định nghĩa, phản ánh được bản chất của phương thức giáo dục hòa nhập “Giáo dục hòa nhập là phương thức giáo dục nhằm đáp ứng nhu cầu và khả năng khác nhau của người học; bảo đảm quyền học tập bình đẳng, chất lượng giáo dục, phù hợp với nhu cầu, đặc điểm và khả năng của người học; tôn trọng sự đa dạng, khác biệt của người học và không phân biệt đối xử” (Điều 15.1 Luật Giáo dục năm 2019).
*Đề xuất: Cần sửa đổi, bổ sung thuật ngữ “giáo dục hòa nhập” theo định nghĩa của Luật Giáo dục năm 2019 mới chính xác.
5.2. Về quyền của người khuyết tật
Thứ nhất, điểm d, khoản 1, Điều 4 của Luật NKT-2010 liệt kê một số quyền của người khuyết tật cần được đảm bảo “d) Được chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, học văn hóa, học nghề, việc làm, trợ giúp pháp lý, tiếp cận công trình công cộng, phương tiện giao thông, công nghệ thông tin, dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch và dịch vụ khác phù hợp với dạng tật và mức độ khuyết tật;”. Quy định như vậy là chưa đầy đủ về quyền con người và quyền công dân theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam. Việc khẳng định người khuyết tật có toàn bộ những quyền và tự do cơ bản của con người và quyền công dân theo Hiến pháp (Điều 14,15) và bảo đảm quyền bình đẳng, chống kỳ thị, phân biệt đối xử với người khuyết tật đã được lồng ghép trong nhiều đạo luật hiện hành.
Thứ hai, trong nhóm quyền được đặc biệt liệt kê (điểm d khoản 1, Điều 4 Luật NKT-2010) có những quyền quan trọng chưa được nêu “Quyền của người khuyết tật được bảo đảm hỗ trợ trong tình huống nguy hiểm và tình trạng khẩn cấp nhân đạo”. Nội dung này cũng phù hợp với Điều 11 của CRPD; Luật Phòng chống thiên tai 2013; Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022 và phù hợp với thực trạng của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hiện tại và tương lai.
*Đề xuất: Bổ sung Điều 4 Luật NKT-2010:
(i) Đưa vào nhóm quyền thứ nhất “Người khuyết tật có toàn bộ những quyền và tự do cơ bản của con người và quyền công dân theo Hiến pháp và phát luật Việt Nam, trên cơ sở bình đẳng, không bị phân biệt đối xử”;
(ii) Bổ sung vào khoản 1 “Quyền được đảm bảo hỗ trợ trong phòng chống thiên tai, dịch bệnh, tình thế cấp thiết khác”.
- Công nghệ thông tin và truyền thông
Trí tuệ nhân tạo (AI) đang khẳng định vai trò trong việc thúc đẩy quyền lợi của người khuyết tật bằng cách đáp ứng các nhu cầu cá nhân và mở rộng khả năng sống độc lập. Các hệ thống hỗ trợ dựa trên AI không chỉ cải thiện khả năng di chuyển cá nhân mà còn giúp người khuyết tật tiếp cận thông tin, giáo dục và lao động. Việc ứng dụng AI trong hỗ trợ người khuyết tật sẽ góp phần thu hẹp khoảng cách số và mở rộng cơ hội tiếp cận công nghệ cho người khuyết tật.
Đề xuất: Cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định Điều 43 Luật NKT-2010 theo hướng bảo đảm đồng bộ với các luật khác. Trong đó khẳng định chính sách: Người khuyết tật có quyền tiếp cận với những công nghệ mới, các thông tin liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ và những thông tin hợp pháp khác theo quy định của pháp luật. Nhà nước cần có lộ trình xây dựng trang thông tin điện tử tiếp cận với người khuyết tật; tăng cường kỹ năng áp dụng công nghệ phù hợp với từng dạng khuyết tật vào đời sống. Khuyến khích tổ chức, cá nhân nghiên cứu, đầu tư, áp dụng các công nghệ hiện đại ứng dụng AI và truyền thông phục vụ người khuyết tật và tăng cường sử dụng phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu trên các kênh truyền hình./. TVC.
Luật sư – Nhà báo Trần Văn Chương