(ĐHVO). Đào tạo nghề và giải quyết việc làm luôn là những nội dung quan trọng, không thể thiếu trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội nhằm hướng tới sự phát triển bền vững, đặc biệt là đối với lao động là dân tộc thiểu số.
Ảnh minh học – Nguồn: Internet
Đào tạo nghề và sự cần thiết giải quyết việc làm cho lao động dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay
– Đào tạo nghề và giải quyết việc làm luôn là những nội dung quan trọng, không thể thiếu trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội nhằm hướng tới sự phát triển bền vững. Đào tạo nghề là những hoạt động học tập được diễn ra trong thời gian nhất định nhằm cung cấp cho người lao động những kiến thức, kỹ năng chuyên sâu để thực hiện có hiệu quả hơn về công việc hiện tại, củng cố và bổ sung những kiến thức và kỹ năng, trình độ chuyên môn còn thiếu hụt của người lao động chung và người lao động DTTS nói riêng.
– Đồng bào DTTS cư trú chủ yếu ở vùng núi, biên giới, vùng sâu, vùng xa – những địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng cả về chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng và bảo vệ môi trường sinh thái. Đây là địa bàn có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, cơ sở hạ tầng yếu kém; xuất phát điểm và trình độ phát triển kinh tế – xã hội thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao, mặt bằng dân trí thấp, thường bị ảnh hưởng của thiên tai, lũ lụt… Đời sống của họ còn nhiều khó khăn, việc làm của người dân vùng DTTS dễ rơi vào tình trạng bấp bênh, không ổn định, khó duy trì, trình độ dân trí thấp, tiềm ẩn nhiều nguy cơ về mất ổn định an ninh, chính trị. Theo thống kê, chất lượng lao động DTTS thấp. Khoảng 75% dân số vùng dân tộc thiểu số và miền núi (tương đương 50 triệu người trong đó 44 triệu người thuộc diện không có kĩ năng) đang ở độ tuổi lao động và nếu như Việt Nam không chuẩn bị một chính sách đúng đắn giải quyết việc làm cho vùng DTTS và miền núi, đặc biệt là đối với các DTTS đặc biệt khó khăn thì có khả năng là các dân tộc thiểu số sẽ bị gạt ra khỏi quá trình phát triển kinh tế chung của quốc gia. Trong quá trình toàn cầu hóa, lực lượng lao động ngày càng phải đáp ứng yêu cầu là có tay nghề, linh hoạt, năng động và luôn luôn thích ứng với nhu cầu lao động của thị trường lao động. Điều này đặt ra yêu cầu đòi hỏi Nhà nước cần phải có giải pháp về cơ chế, chính sách để giải quyết tình trạng trên, trong đó tạo cơ hội về việc làm, chuyển đổi sinh kế, tăng thu nhập là một trong những ưu tiên cần chú ý.
1. Chính sách đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động DTTS
Mục tiêu của chính sách đào tạo nghề, giải quyết việc làm đối với lao động vùng DTTS là: phát triển nguồn nhân lực đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng, trong đó ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề gắn với việc làm cho vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đồng thời, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo nghề nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập của lao động DTTS, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế, xây dựng nông thôn mới phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Nhiều địa phương ở vùng DTTS đã triển khai thực hiện tốt những chủ trương, chính sách giáo dục – đào tạo, dạy nghề, giải quyết việc làm. Trong đó, nổi bật là việc thực hiện chính sách dạy nghề cho học sinh, sinh viên DTTS (Quyết định số 267/2005/QĐ-TTg, ngày 31-10-2005, của Thủ tướng Chính phủ); chính sách hỗ trợ chi phí học tập đối với sinh viên là người DTTS (Quyết định số 66/2013/QĐ-TTg, ngày 11-11-2013, của Thủ tướng Chính phủ); chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020 (Quyết định số 971/QĐ-TTg, ngày 7-1-2015, của Thủ tướng Chính phủ); chế độ cử tuyển vào các cơ sở giáo dục (Nghị định số 49/2015/NĐ-CP, ngày 15-5-2015, của Chính phủ); chính sách miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập cho học sinh, sinh viên DTTS (Nghị định số 86/2015/NĐ-CP, ngày 2-10-2015, của Chính phủ)…có thể nói, những chính sách hỗ trợ này bao phủ tất cả các đối tượng người lao động. Riêng đối với lao động là người dân tộc thiểu số, khi tham gia học nghề sẽ được hỗ trợ hoàn toàn chi phí đào tạo, tiền ăn (kể cả tiền ăn trong những ngày nghỉ học theo quy định), tiền đi lại, tiền thuê nhà, tiền mua đồ dùng cá nhân trong thời gian học nghề; sau khi học nghề sẽ được giải quyết việc làm ngay tại doanh nghiệp và tiếp tục được hỗ trợ tiền thuê nhà…
Bên cạnh những chính giáo dục – đào tạo nghề, các địa phương cũng đang triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ để giải quyết việc làm cho lao động dân tộc thiểu số như: Quyết định số 42/2012/QĐ-TTg ngày 08/10/2012 “Về việc hỗ trợ tổ chức, đơn vị sử dụng lao động là người dân tộc thiểu số tại khu vực miền núi, vùng đặc biệt khó khăn”. Phạm vi điều chỉnh là quy định chính sách hỗ trợ về đào tạo, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, định mức lao động, tiền thuê đất, nguồn vốn hỗ trợ và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có liên quan đến việc tổ chức thực hiện chính sách này; Thông tư 58/2017/TT-BTC hướng dẫn một số chính sách hỗ trợ tài chính cho tổ chức, đơn vị sử dụng lao động là người dân tộc thiểu số tại khu vực miền núi, vùng đặc biệt khó khăn về chi trả bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, đào tạo nghề ngắn hạn, tiền thuê đất cho các tổ chức, đơn vị sử dụng lao động là người DTTS cư trú hợp pháp trên địa bàn tại khu vực miền núi, vùng đặc biệt khó khăn theo quy định tại Quyết định số 42/2012/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định số 64/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung Quyết định số 42/2012/QĐ-TTg. Đối tượng áp dụng của Quyết định, Thông tư nói trên, gồm: Các công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên nông, lâm, thủy sản do Nhà nước làm chủ sở hữu; Ban quản lý rừng đặc dụng, Ban quản lý rừng phòng hộ; Hợp tác xã; các doanh nghiệp ngoài nhà nước (bao gồm cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài).
Công tác thực hiện Chính sách đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động DTTS
Đặc biệt trong giai đoạn gần đây, công tác đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm cho lao động DTTS được tổ chức thực hiện khá tốt với nhiều hoạt động trên địa bàn như: công tác truyền thông về dạy nghề, tư vấn, hướng nghiệp được triển khai bằng nhiều hình thức: trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên trang thông tin điện tử của Sở Lao động – Thương binh và Xã hội và các cơ sở GDNN, trực tiếp đến học sinh, người lao động; tiến hành điều tra khảo sát và dự báo nhu cầu học nghề, tư vấn về học nghề và việc làm; tổ chức các hội nghị tập huấn, xây dựng các mô hình dạy nghề hiệu quả, thích hợp cho lao động DTTS; tổ chức các hội nghị sơ kết, giao ban định kỳ; tổ chức các đoàn công tác trực tiếp đi làm việc với các địa phương để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc.
Việc đào tạo nghề và giải quyết việc làm ở vùng đồng bào DTTS ngày càng chú trọng vào những ngành, nghề phù hợp nhu cầu thị trường lao động. Một số địa phương đẩy mạnh thu hút các doanh nghiệp đầu tư, tạo việc làm tại chỗ cho vùng có đông đồng bào DTTS, qua đó khuyến khích việc dạy và học nghề. Nhiều tỉnh thực hiện tốt chính sách hỗ trợ gạo, tiền, miễn giảm học phí; trao học bổng, tặng quà cho học sinh, sinh viên DTTS vượt khó, học giỏi; xét cử tuyển, dự bị đại học, nội trú; đẩy mạnh đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm ở vùng có đông đồng bào DTTS. Nhiều địa phương đã vận dụng một số cách làm hay, hiệu quả, như: ngay từ khâu tư vấn, tuyển sinh, một số cơ sở GDNN đã kết hợp doanh nghiệp, phối hợp với địa phương thông tin cụ thể người lao động sau học nghề sẽ làm việc tại doanh nghiệp nào, thu nhập bao nhiêu, điều kiện làm việc ra sao…; trước khi khai giảng, một số cơ sở GDNN đã tổ chức cho người lao động là đồng bào dân tộc thiểu số đi thăm quan một số doanh nghiệp để tìm hiểu, nắm bắt thực tế để có sự lựa chọn; tổ chức đào tạo theo mô hình khép kín, vừa đào tạo ở nhà trường, vừa đào tạo tại doanh nghiệp để người lao động quen dần với môi trường làm việc và đáp ứng ngay yêu cầu công nghệ của doanh nghiệp; khi bàn giao lao động cho doanh nghiệp, các địa phương, cơ sở GDNN cử cán bộ theo dõi, quan tâm, động viên người lao động trong thời gian đầu, phối hợp doanh nghiệp tìm kiếm chỗ ăn chỗ nghỉ cho người lao động, thường xuyên giữ liên lạc với doanh nghiệp để theo dõi, nắm bắt tình hình…
2. Kết quả thực hiện chính sách đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động DTTS
Nhờ triển khai thực hiện đồng bộ nhiều hoạt động gắn đào tạo nghề với giải quyết việc làm và định hướng phát triển kinh tế – xã hội của từng địa phương, vì vậy đã có nhiều chuyển biến tích cực trong đào tạo nghề và giải quyết việc làm: mô hình dạy nghề ngày càng đa dạng, sáng tạo, như: dạy nghề tại các doanh nghiệp, dạy nghề cho lao động các khu công nghiệp, … góp phần tạo việc làm cho nhiều người lao động DTTS. Những nỗ lực trong công tác giáo dục, đào tạo nghề, giải quyết việc làm đã góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giảm tỷ lệ hộ nghèo đồng bào DTTS của các tỉnh, thành thành phố. Kết quả cụ thể đã đạt được như sau:
Về vấn đề việc làm: theo thống kê, cả nước đã hỗ trợ đào tạo trên 1,1 triệu người, chiếm 14% trên tổng số gần 8 triệu người DTTS trong độ tuổi lao động. Đa số lao động DTTS đều được đào tạo về nông nghiệp. Bởi, với thời gian đào tạo ngắn hạn (dưới 3 tháng), việc tham gia học nghề nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi) là phù hợp nhất, Đang làm nông, đi học nghề nông nghiệp nên học xong dù không có việc làm mới thì lao động vẫn có việc làm. Hầu hết tại các địa phương, việc dạy nghề đã gắn với giải quyết việc làm, tự tạo việc làm. . . Nhiều người sau khi học nghề đã tự mở rộng quy mô sản xuất theo mô hình trang trại, phát triển kinh tế tại chỗ. Nhờ học nghề, 86,1% người dân tộc thiểu số từ 15 tuổi trở lên đã có việc làm.
Về trình độ chuyên môn kỹ thuật: theo báo cáo của Bộ LĐTB&XH, tính đến hết năm 2019, cả nước đã có khoảng 9,6 triệu lao động nông thôn được học nghề theo Đề án 1956; đạt 85,7% mục tiêu của đề án (11,2 triệu người đến năm 2020). Còn tính riêng lao động DTTS, theo thống kê của Ủy ban Dân tộc, từ năm 2016 đến cuối năm 2018, có khoảng 480 nghìn người được học nghề. Trong đó chỉ có 130 nghìn người học trung cấp, cao đẳng; còn lại khoảng 350 nghìn người được đào tạo ngắn hạn theo Đề án 1956 [1].
Về thu nhập bình quân: Báo cáo của TCTK cho thấy, năm 2019, thu nhập bình quân của nhóm “Lao động giản đơn” (chủ yếu LĐNT, lao động DTTS), dù mức thu nhập vẫn thấp nhất (3,26 triệu đồng/người/tháng) nhưng cũng đã tăng 717 nghìn đồng so với năm 2018.[2]
Có thể nói, trong bối cảnh hiện nay, đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao động DTTS, nhất là lực lượng thanh niên, được xem là “cứu cánh”. Tuy nhiên, kết quả đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao động DTTS còn quá khiêm tốn. Không chỉ ít về số lượng mà chất lượng đào tạo nghề cho lao động DTTS cũng là vấn đề cần quan tâm. Theo thống kê, cả nước có gần 4 triệu lao động DTTS; nhưng tỷ lệ qua đào tạo nghề (chủ yếu là sơ cấp nghề dưới 3 tháng) chỉ chiếm khoảng 3%; tương đương khoảng 120 nghìn lao động. Ở khu vực trung du, miền núi phía Bắc; bình quân trong 100 lao động chỉ có 19 người đã qua đào tạo (sơ cấp, trung cấp, cao đẳng, đại học); khu vực Tây Nguyên và ĐBSCL còn thấp hơn, chỉ có 13 – 16/100 lao động đã qua đào tạo. Đại đa số chưa qua đào tạo nên lao động DTTS chủ yếu làm việc đơn giản, thu nhập thấp. [3]Từ năm 2015, kết quả điều tra thực trạng KT-XH 53 DTTS đã cho thấy, thu nhập bình quân của lao động DTTS chỉ 1,16 triệu đồng/người/tháng, bằng 45% bình quân chung của cả nước. Sau 5 năm, đến nay thu nhập của lao động DTTS vẫn thuộc nhóm thấp. Nội dung đào tạo nghề cho người lao động DTTS còn nhiều bất cập; ngành, nghề dạy chủ yếu vẫn là nghề liên quan đến nông nghiệp, ngắn hạn; nhiều lao động có nhu cầu chuyển đổi sang nghề phi nông nghiệp nhưng vẫn chưa được đào tạo để đáp ứng yêu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp tại địa phương. Một số nội dung trong các chủ trương, chính sách về giáo dục – đào tạo, dạy nghề, giải quyết việc làm chưa đồng bộ, khó triển khai thực hiện. Nhiều sinh viên DTTS theo học hệ cử tuyển sau khi tốt nghiệp ra trường không bố trí được việc làm theo quy định. Ở một số vùng đồng bào DTTS còn thiếu giáo viên đạt chuẩn, thiếu kinh nghiệm trong việc tổ chức các hoạt động giáo dục, dạy nghề đặc thù. Công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho đồng bào DTTS, nhất là nghề phi nông nghiệp, việc làm tại chỗ hiệu quả còn thấp; việc kết nối đào tạo nghề với giải quyết việc làm chưa được quan tâm đúng mức. Nhiều lao động đã được đào tạo nhưng chưa tìm được việc làm hoặc làm những công việc không phù hợp với ngành, nghề được đào tạo. Những hạn chế nêu trên có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu vẫn là do điểm xuất phát của vùng đồng bào DTTS thấp; hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, nhất là giao thông thiếu và yếu, tác động bất lợi của tình trạng biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh… ngày càng trầm trọng. Một số nơi, cấp ủy, chính quyền nhận thức chưa đầy đủ, chưa quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo, thiếu sự phối hợp giữa các cấp, các ngành trong thực hiện các chủ trương, chính sách về giáo dục, đào tạo nghề, tạo việc làm cho đồng bào DTTS.
3. Một số hàm ý chính sách
Để nâng cao chất lượng cuộc sống cho đồng bào DTTS, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định: “Huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số. Chú trọng tính đặc thù của từng vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc”[4]. Đề án tổng thể phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030 được ban hành kèm theo Nghị quyết số 88/2019/NQ-QH14, của Quốc hội khóa XIV đã đề ra mục tiêu cụ thể đến năm 2025 là “50% lao động trong độ tuổi được đào tạo nghề phù hợp với nhu cầu, điều kiện của người dân tộc thiểu số”. Đề án cũng định hướng mục tiêu đến năm 2030 là: “Chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số, hằng năm thu hút 3% lao động sang làm các ngành, nghề: công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, du lịch, dịch vụ. Đến 2030, có 40% lao động người dân tộc thiểu số biết làm các ngành, nghề: công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, du lịch, dịch vụ. Phấn đấu có 80% số hộ nông dân người dân tộc thiểu số làm kinh tế nông – lâm nghiệp hàng hóa”.
Trên cơ sở những định hướng của Đảng và Nhà nước, thời gian tới, để nâng cao chất lượng hiệu quả công tác giáo dục, đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho đồng bào DTTS cần chú trọng thực hiện đồng bộ một số giải pháp (6 giải pháp) sau:
Thứ nhất, cấp ủy, chính quyền các địa phương vùng DTTS tiếp tục quán triệt, thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân tộc và công tác giáo dục, đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho đồng bào DTTS. Trong đó, chú trọng thực hiện có hiệu quả Kết luận số 65-KL/TW, ngày 30-10-2019, của Bộ Chính trị “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới”, Nghị quyết số 88/2019/QH14, của Quốc hội “Phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế, xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030”
Thứ hai, triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả các chương trình, đề án, chính sách của Chính phủ và các địa phương về giáo dục nghề nghiệp, giải quyết việc làm ở vùng DTTS. Chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp ở vùng đồng bào DTTS. Các hình thức giáo dục nghề nghiệp phải được triển khai phù hợp với điều kiện đặc thù của địa phương, phù hợp với tập quán của đồng bào DTTS. Chú trọng hỗ trợ sau đào tạo nghề để người lao động có thể chủ động khởi nghiệp, tự tạo việc làm. Bên cạnh đó, có chính sách ưu đãi khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư phát triển cơ sở sản xuất ở vùng có đông đồng bào DTTS để hỗ trợ đào tạo, tiếp nhận, tạo việc làm cho người lao động.
Thứ ba, quy hoạch lại hệ thống mạng lưới trường, lớp, cơ sở giáo dục, đào tạo nghề ở vùng đồng bào DTTS cho phù hợp với quy hoạch chung của toàn vùng và của địa phương về giáo dục – đào tạo. Tăng cường đầu tư, hỗ trợ các cơ quan quản lý về giáo dục nghề nghiệp, các cơ sở dạy nghề, các trung tâm dịch vụ việc làm, các doanh nghiệp, người lao động để nâng cao hiệu quả dạy nghề gắn với giải quyết việc làm ở vùng đồng bào DTTS. Chú trọng đào tạo và đào tạo lại để phát triển, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên dạy nghề, bảo đảm đủ về số lượng, chuẩn về nghề nghiệp, hợp lý về cơ cấu, tăng cường giáo viên dạy nghề thích ứng với xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động, trang bị những kỹ năng cần thiết cho người lao động DTTS thích ứng với nhu cầu của thị trường.
Thứ tư, tăng cường liên kết giữa các tỉnh, thành phố trong vùng và các địa phương trong nước để phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, đào tạo nghề, giải quyết việc làm. Liên kết để đa dạng hoá các nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế – xã hội ở vùng đồng bào DTTS, trong đó ưu tiên nguồn lực của Nhà nước để đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế – kỹ thuật, nâng cao hiệu quả thực hiện các chương trình, dự án tạo sinh kế cho vùng đồng bào DTTS. Đẩy mạnh cơ cấu lại kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá, phù hợp với tập quán của từng dân tộc để tạo việc làm ổn định cho đồng bào theo phương châm “ly nông bất ly hương”.
Thứ năm, các địa phương cần tăng cường công tác tuyên truyền, vận động, tư vấn người DTTS học nghề phù hợp với khả năng, nhu cầu; nghiên cứu tổ chức các khóa, các lớp đào tạo nghề có chương trình, thời gian phù hợp trình độ dân trí, tâm lý học viên là người DTTS; chú trọng đào tạo những kỹ năng chuyên môn theo yêu cầu cho từng vị trí việc làm. Hạn chế tình trạng dạy nghề theo chỉ tiêu thành tích, dạy nghề theo phong trào, không gắn kết dạy nghề với nhu cầu thị trường, với thực tiễn kinh tế – xã hội của địa phương, với doanh nghiệp, cơ sở sản xuất. Cùng với việc hỗ trợ chi phí cho các hộ và người DTTS học nghề, chuyển đổi nghề, Nhà nước cần có cơ chế khuyến khích, hỗ trợ cho các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ sản xuất có đào tạo và sử dụng nhiều lao động là người DTTS.
Thứ sáu, do điều kiện tự nhiên, địa hình đồi núi ở vùng DTTD và tác động của tình trạng biến đổi khí hậu, thiên tai, nhiều nông hộ là DTTS rơi vào tình cảnh nghèo khó vì thiếu đất hoặc không còn đất để sản xuất. Vì thế, đối với những địa phương không còn quỹ đất sản xuất để giao cho người dân, cần chú trọng xây dựng và thực hiện đồng bộ các chương trình, kế hoạch hỗ trợ đào tạo nghề, hỗ trợ tín dụng, hỗ trợ khoa học – công nghệ, giúp đồng bào DTTS tiếp cận với nhiều nghề phi nông nghiệp, nhanh chóng chuyển đổi nghề để bảo đảm sinh kế, ổn định cuộc sống. Có chính sách thiết thực hỗ trợ đào tạo nghề đối với đồng bào DTTS bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19.
Thực hiện tốt những giải pháp này sẽ khuyến khích đồng bào DTTS có hoàn cảnh khó khăn tích cực lao động, sản xuất, vươn lên thoát nghèo bền vững; đồng thời, huy động được các nguồn lực xã hội, doanh nghiệp, dân cư, hộ gia đình cùng với Nhà nước chăm lo đào tạo nghề và giải quyết việc làm để bảo đảm cuộc sống cho đồng bào DTTS có hoàn cảnh khó khăn./.
Ths. Lã Minh Tuyến
Khoa Xã hội học và Phát triển – Học viện CTKV I
TS. Nguyễn Thị Thùy Linh
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.164
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.II, tr. 140
(3) Ủy ban Dân tộc – Tổng cục Thống kê: Kết quả điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế – xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2019, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2020, tr.49
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr. 170
[1] Dẫn theo: https://baodantoc.vn/nang-cao-trinh-do-cho-lao-dong-dtts-can-thay-doi-cach-xac-dinh-lao-dong-qua-dao-tao-bai-3-1585106692489.htm
[2] ) Ủy ban Dân tộc – Tổng cục Thống kê: Kết quả điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế – xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2019, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2020,
[3] Ủy ban Dân tộc – Tổng cục Thống kê: Kết quả điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế – xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2019, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2020, tr.49
[4] Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr. 170