(ĐHVO) Năm 1969, tin Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời trong thời điểm khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang còn dang dở khiến hầu như mọi người dân Việt Nam ai cũng bàng hoàng.
Lễ truy điệu được ấn định ngày 9/9/1969, nhưng đến tận chiều tối ngày 6/9, khâu quan trọng nhất là bài điếu văn vẫn chưa hoàn thành. Cả hai bản dự thảo điếu văn đều không được tập thể Bộ Chính trị thông qua. Tối ngày hôm ấy, Tổng bí thư Lê Duẩn sau khi rời cuộc họp về nhà đã cho gọi ngay hai trợ lý của mình là ông Đống Ngạc và ông Đậu Ngọc Xuân lên gặp. Tổng bí thư trao đổi với hai ông về những vấn đề lớn cần đề cập trong điếu văn, cách hành văn sao cho giản dị mà vẫn truyền cảm, chứ không lâm li bi đát, sáo mòn như trong các bài điếu văn khác. Bên cạnh đó, hai ông cũng được yêu cầu cần tham khảo các bài điếu văn của Ăng-ghen đọc trước phần mộ Các Mác, của Stalin khi tiễn biệt Lê-nin. Đặc biệt, cần tham khảo bài điếu văn của Hồ Chủ tịch đã đọc khi vĩnh biệt nhà cách mạng lão thành Hồ Tùng Mậu.
Mặc dù đã được Tổng bí thư Lê Duẩn định hướng, nhưng từ lúc được giao nhiệm vụ tới tận nửa đêm, cả hai ông vẫn chưa viết xong câu mở đầu. Trách nhiệm cũng như nỗi bi thương khi không dám nghĩ rằng Bác đã đi xa đè nặng lên tâm trí, khiến ngồi trước trang giấy mà hai ông vẫn không thể nhấc nổi cái bút viết bài điếu văn. Vì lao lực nhiều ngày, ông Đậu Ngọc Xuân bị ngất đi ngay trên bàn làm việc, khiến ông Đống Ngạc phải dừng nghĩ, cùng tổ phục vụ lo thu xếp cho ông Đậu Ngọc Xuân tĩnh dưỡng.
Sau khi lo liệu mọi việc, trở lại bàn làm việc, ông Đống Ngạc tĩnh trí, cầm bút viết như tự nói với lòng mình: “Hồ Chủ tịch kính yêu của chúng ta không còn nữa!”. Ngay khi viết xong câu đó, ông như bừng tỉnh, viết liền một mạch đoạn mở đầu về nỗi đau khi Bác mất. Ông ghi nhận cuộc đời và công lao to lớn của Bác đối với dân tộc, nhân dân bằng câu khẳng định: “Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch – Người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ cho dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta…”. Những nhiệm vụ cụ thể kế tục sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh được ông chuyển thành 5 lời thề dứt khoát của Ban chấp hành TW Đảng với Bác Hồ, với toàn quân, toàn dân. Để tăng sức truyền cảm và tỏ rõ ý chí, ông lặp lại điệp khúc trước mỗi câu thề: “Vĩnh biệt Người, chúng ta thề !”. 5 giờ sáng ngày 7/9/1969, ngay khi ông Đống Ngạc vừa đặt xong dấu chấm than kết thúc bài điếu văn thì Tổng bí thư Lê Duẩn cũng vừa xuất hiện trước cửa phòng. Ngay lập tức, bài điếu văn với từng câu chữ rung động lòng người đã được Tổng bí thư Lê Duẩn cho đánh máy, gửi từng Ủy viên Bộ chính trị và Ban bí thư xem xét lúc 8 giờ sáng cùng ngày. Về cơ bản, mọi người đều nhất trí với điếu văn do ông Đống Ngạc chấp bút, nhưng việc chỉnh lý để từng câu chữ cho chuẩn xác, ý tứ cho nhuần nhuyễn hơn nữa cũng phải làm tới 11 giờ mới xong. Đến 20 giờ ngày 7/9/1969, sau khi Ban đối ngoại dịch ra 5 thứ tiếng Nga, Anh, Pháp, Trung Quốc, Tây Ban Nha và được Tổng bí thư Lê Duẩn đặt bút ký, bài điếu văn mới chính thức hoàn thành.
Tổng Bí thư Lê Duẩn đọc điếu văn tiễn đưa Hồ Chủ tịch tại Quảng trường Ba Đình
Ngày cử hành Lễ tang Chủ tịch Hồ Chí Minh, trời mưa tầm tã như khóc thương người. Mọi hoạt động ở Hà Nội khi ấy dường như bị ngưng trệ. Từ trong nhà ra đến ngoài đường, ai cũng im lặng, lầm lũi đi trong mưa. Một không khí u buồn, bi thương bao trùm khắp Thủ đô và phủ đầy lòng mỗi người dân đất Việt. Đến tiễn đưa Bác, nhiều người không cầm được nước mắt. Tiếng khóc từ khối thiếu niên lan sang khối các bà các chị, rồi lan tới cả những người đàn ông. Ai cũng cảm thấy hẫng hụt và đau buồn khi dự lễ tiễn biệt Bác Hồ.
Đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn thay mặt Ban chấp hành Trung ương Đảng đọc điếu văn tiễn đưa Người. Ngay khi câu đầu tiên của bài điếu văn cất lên: “Hồ Chủ tịch kính yêu của chúng ta không còn nữa! Tổn thất này vô cùng lớn lao! Đau thương này thật là vô hạn!”, tiếng khóc lại lớn hơn khiến ông phải dừng lại, chờ mọi người ngớt khóc. Khi ông đọc tới câu: “Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch – Người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta” thì tiếng khóc dần bé lại. Và rồi, cả Quảng trường Ba Đình vang dội lời “Xin thề” khi Tổng Bí thư đọc 5 lời thề nguyện kế tục sự nghiệp Hồ Chí Minh của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân. Với mỗi câu thề được Tổng bí thư Lê Duẩn đọc lên là hàng vạn cánh tay cùng giơ cao, và tiếng hô “Xin thề” vang khắp quảng trường.
Có lẽ, kể từ ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tới mãi về sau, chưa có và sẽ không thể có một bài điếu văn có sức lay động lòng người lớn lao và xúc động đến vậy. Đến nay, đã nhiều năm trôi qua, nhưng sức mạnh lan tỏa của bài điếu văn trong Lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên đó. Bài điếu văn tiễn đưa Hồ Chủ tịch được coi là một văn kiện lịch sử đặc biệt, được thể hiện một cách hào hùng, xúc động; là tinh hoa của trí tuệ Bộ chính trị và Ban bí thư, và cả tâm huyết, tình cảm của ông Đống Ngạc dành cho Bác Hồ kính yêu. Những âm hưởng đau buồn nhưng không bi lụy, hào hùng nhưng vẫn bình dị và truyền cảm ấy đã làm rung động trái tim mỗi người dân Việt Nam và bạn bè thế giới!
Hồ Công Thiết