Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sai đối tượng

(ĐHVO). Ở nước ta, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn còn nhiều bất cập. Trong quá trình thực hiện việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tình trạng vi phạm thời hạn giải quyết, cấp đất không đúng diện tích theo thực tế (thừa hoặc thiếu), không đúng đối tượng, xác định thời hạn, nguồn gốc sử dụng đất không chính xác… vẫn xảy ra thường xuyên. Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ đến quyền và lợi ích của các cá nhân, hộ gia đình. Sau đây, xin mời bạn đọc cùng Trung tâm trợ giúp pháp lý Đồng hành Việt tìm hiểu kỹ hơn về trường hợp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sai đối tượng cho người khuyết tật.

Câu hỏi: Xin chào Luật sư, tôi tên là Nguyễn Thị H, tôi có một thắc mắc về trường hợp như sau: Chồng tôi có một người em Nguyễn Thị N, sinh năm 1968, bị bệnh tâm thần phân liệt từ năm 1995; do vậy từ năm 1995,  N được nhận trợ cấp cho người khuyết tật của nhà nước. Năm 1999, thấy N không có đất, có nhà để sinh sống nên vợ chồng tôi có cho N mượn một thửa đất trong diện tích đất của nhà tôi (có trích lục bản đồ), trong biên bản thỏa thuận có xác nhận của UBND xã có ghi rõ: “thửa đất này tôi chỉ cho N mượn để ở, N không được phép chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp…hay thực hiện bất kỳ một giao dịch dân sự nào liên quan đến thửa đất này. Khi nào N đi lấy chồng hoặc không sử dụng nữa thì tôi sẽ  lấy lại thửa đất”. Trong thời gian N ở tại thửa đất này, các loại thuế, phí liên quan đến việc sử dụng đất vẫn do nhà tôi đóng. Tháng 01/2013, bệnh tình N chuyển biến xấu nên phải đưa vào bệnh viện tâm thần điều trị đến tận tháng 5/2014. Trong thời gian đó, anh em chồng tôi gửi đơn yêu cầu cắt đất cho bà N, ngay khi biết thông tin này vợ chồng tôi đã có đơn đề nghị gửi UBND xã về việc cắt đất của chồng tôi là không đúng, vụ việc đã dừng lại tại đây. Năm 2015, chồng tôi qua đời, sau đó tôi mới phát hiện vào tháng 7/2013, bà N được UBND huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vậy, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà N là đúng hay sai? Tôi cần làm gì để bảo vệ quyền và lợi ích của mình? Xin Trung tâm tư vấn pháp luật Đồng Hành Việt giải đáp cho tôi vấn đề trên, tôi xin chân thành cảm ơn!

 

Ảnh minh họa (Nguồn Internet)

Về vấn đề này, Trung tâm trợ giúp pháp lý Đồng hành Việt tư vấn cho bà như sau:

I. Căn cứ pháp lý

– Luật Người khuyết tập năm 2010;

– Luật Đất đai năm 2003;

– Nghị định 28/2012/NĐ-CP ngày 10/4/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật người khuyết tật.

II. Nội dung tư vấn

Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Người khuyết tật năm 2010: “Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn.”

Theo quy định tại khoản 4 Điều 2 Nghị định 28/2012/NĐ-CP: Khuyết tật thần kinh, tâm thần là tình trạng rối loạn tri giác, trí nhớ, cảm xúc, kiểm soát hành vi, suy nghĩ và có biểu hiện với những lời nói, hành động bất thường.

Những người bị khuyết tật thần kinh, tâm thần là những người bị mất, hạn chế năng lực hành vi dân  sự. Phần lớn trường hợp họ không thể nhận thức được hành vi của mình và cũng không kiểm soát được nó.

Theo thông tin bạn cung cấp, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của UBND huyện là sai, bởi những lẽ sau:

Thứ nhất, bà N không đủ các điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Theo Điều 50 Luật Đất đai năm 2003, để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:

– Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

– Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;

– Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;

– Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;

– Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật;

– Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất.

Tuy nhiên, đất này được vợ chồng ông bà H cho bà N mượn, do vậy, bà N không có giấy tờ pháp lý nào của cơ quan nhà nước thể hiện bà có quyền đối với mảnh đất này.

Mặt khác, Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất. Theo những thông tin như bà H cung cấp ở trên, từ tháng 1/2013 đến tháng 5/2014, trong quá trình bà N điều trị tại bệnh viện tâm thần thì phát sinh tranh chấp về đất giữa gia đình chị và ông V(anh trai bà N). Như vậy, dựa vào những quy định trên có thể kết luận, bà N không có đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Thứ hai, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà N là không đúng.

Theo thông tin bà H cung cấp, thửa đất mà bà N ở thuộc quyền sử dụng đất của vợ chồng bà (vợ chồng bà đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với mảnh đất trên), do thương bà N không có chỗ ở nên vợ chồng bà cho bà N mượn ở tạm. Trong Biên bản thỏa thuận có xác nhận của UBND xã có ghi: “thửa đất này tôi chỉ cho N mượn để ở, N không được phép chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp…hay thực hiện bất kỳ một giao dịch dân sự nào liên quan đến thửa đất này. Khi nào N đi lấy chồng hoặc không sử dụng nữa thì tôi sẽ lấy lại thửa đất”. Rõ ràng, trong Biên bản thỏa thuận không có bất kỳ nội dung nào thể hiện việc vợ chồng bà H chuyển nhượng, tặng cho bà N. Vào thời điểm được cấp giấy chứng nhận đất, năm 2003, bà N đang điều trị tại bệnh viện tâm thần, không sinh sống trên đất. Mặt khác, trong quá trình bà N ở tạm trên thửa đất, vợ chồng bà vẫn hoàn thành nghĩa vụ thuế, phí đối với cả mảnh đất (bao gồm thửa đất cho bà N mượn ở).

Thứ ba, bà N bị mắc bệnh tâm thần phân liệt từ năm 1997, khi UBND huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà N, bà N đang ở trong trại tâm thần điều trị bệnh, do vậy bà N không thể làm các thủ tục để xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Bà N bị bệnh tâm thần từ nhỏ, được hưởng trợ cấp hàng tháng cho người khuyết tật, năm 2013 bệnh tình bà N chuyển biến xấu nên phải vào điều trị trong bệnh viện tâm thần đến tận tháng 5/2014. Trong quá trình đó bà N không đủ khả năng để chăm sóc bản thân, không có đủ khả năng để thực hiện những thủ tục xin cấp đất, đặc biệt là trong trường hợp đất này không phải của bà và đất đang tranh chấp thì việc cấp giấy chứng nhận quyền cho bà N là việc vô cùng vô lý.

Tóm lại, việc UBND huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà N là sai. Theo quy định điều 106 Luật đất đai, điểm b,c khoản 4 điều 87 Nghị định 43/2004/NĐ-CP, được sửa đổi bổ sung tại Nghị định 01/2017/NĐ-CP:

“b) Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất phát hiện Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật về đất đai thì kiểm tra lại, thông báo cho người sử dụng đất biết rõ lý do và quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định;

c) Trường hợp người sử dụng đất phát hiện Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật về đất đai thì gửi kiến nghị bằng văn bản đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất có trách nhiệm kiểm tra, xem xét quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật về đất đai;”

Như vậy, trong trường hợp này, bà có thể viết đơn yêu cầu UBND huyện thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà N. Trên đây là những giải đáp của Trung tâm trợ giúp pháp lý Đồng hành Việt đối với thắc mắc của bà, chúng tôi hi vọng rằng với những hướng dẫn trên đây, bà có thể bảo vệ quyền và lợi chính đáng của mình trong trường hợp UBND huyện cấp đất không đúng đối tượng. Trân trọng!

Công Năng

Bài viết liên quan

Picture3

Cần tăng cường phổ biến kiến thức pháp luật cho người khuyết tật

Picture2

HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM

Picture3

MỘT SỐ NỘI DUNG MỚI CỦA LUẬT GIAO DỊCH ĐIỆN TỬ NĂM 2023

Picture5

THỰC HIỆN QUYỀN CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT TỰ KỶ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY – THỰC TẾ, KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC, KIẾN NGHỊ

Picture2

HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM

TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA PHÁP NHÂN THƯƠNG MẠI KHÔNG LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA CÁ NHÂN

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang