
Đại diện các gian hàng tham dự triển lãm “Khai phóng tương lai xanh” Trong Trung tâm triển lãm 80 năm thành tựu đất nước “Hành trình Độc Lập- Tự do- Hạnh phúc” chụp ảnh lưu niệm với ông Bùi Quang Huy – Phó chủ tịch UB MTTQ Việt Nam- Bí thư thứ nhất TW Đoàn (Ảnh: Quốc Nam)
Quyền con người đã được khẳng định mạnh mẽ trong Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh và được hiện thực hóa ngay từ Hiến pháp 1946 – bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Văn bản pháp luật cao nhất không chỉ nêu cao các quyền tự do cơ bản, Hiến pháp còn bao hàm tư tưởng nhân văn sâu sắc, trong đó quyền của những người yếu thế, trong đó có người khuyết tật (NKT), đã được đặt nền tảng.
Các bản Hiến pháp sau này – 1959, 1980, 1992, đặc biệt là Hiến pháp 2013 – đều tiếp nối và phát triển tư tưởng đó. Hiến pháp 2013 khẳng định: “Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội”; Nhà nước có trách nhiệm thực hiện các chính sách để bảo đảm quyền học tập, lao động, chăm sóc y tế, tạo điều kiện hòa nhập cộng đồng cho người khuyết tật, người nghèo, người cao tuổi, phụ nữ, trẻ em và đồng bào dân tộc thiểu số. Đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong mọi giai đoạn phát triển đất nước: mọi công dân, dù hoàn cảnh nào, đều có quyền bình đẳng trong cơ hội phát triển và mưu cầu hạnh phúc.
Có thể nói, trong suốt 80 năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định phát triển kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội. Điều này thể hiện rõ trong các nghị quyết, chỉ thị, trong đó có hai chỉ thị đặc biệt quan trọng liên quan trực tiếp đến người khuyết tật:
- Chỉ thị số 51-CT/TW ngày 12/4/1989 của Ban Bí thư về việc giúp đỡ Hội người mù Việt Nam. Đây là văn kiện quan trọng, không chỉ khẳng định vai trò của Hội Người mù trong việc tập hợp, đoàn kết, bảo vệ quyền lợi hội viên, mà còn lồng ghép vấn đề người khuyết tật nói chung trong các vấn đề liên quan nhất là về an sinh xã hội.
- Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 1/11/2019 của Ban Bí thư về tăng cường công tác đối với người khuyết tật, nhấn mạnh trách nhiệm toàn diện của hệ thống chính trị và xã hội trong việc bảo đảm quyền, hỗ trợ hòa nhập và nâng cao đời sống cho NKT.
Hai chỉ thị này đã củng cố mạnh mẽ quan điểm nhất quán: chăm lo cho người khuyết tật là trách nhiệm chung của toàn xã hội, của mỗi cấp, mỗi ngành và từng gia đình đồng thời phát huy quyền của NKT cũng như thúc đẩy học thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân một cách bình đẳng, đầy đủ.
Về phương diện văn bản quy phạm pháp luật, Việt Nam đã sớm ban hành Pháp lệnh về người tàn tật năm 1998 – văn bản pháp lý đầu tiên dành riêng cho người khuyết tật. Đây là dấu mốc quan trọng, đặt nền móng cho hệ thống chính sách hỗ trợ NKT.
Tiếp đó, Luật Người khuyết tật năm 2010 được Quốc hội thông qua, đánh dấu bước phát triển mới, phù hợp hơn với chuẩn mực quốc tế. Luật quy định rõ đầy đủ các quyên: quyền học tập, dạy nghề, việc làm, chăm sóc sức khỏe, tiếp cận công trình công cộng, giao thông, công nghệ thông tin….. và dịch vụ xã hội của NKT. Hàng loạt nghị định, thông tư hướng dẫn cũng được ban hành, giúp chính sách đi vào cuộc sống.
Song song với đó, nhiều chính sách an sinh xã hội cho các nhóm yếu thế khác cũng được ban hành, tạo nên một hệ thống bao trùm: phụ nữ, trẻ em, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, người cao tuổi… Tất cả khẳng định một cách tiếp cận toàn diện, không chỉ dừng ở sự ưu tiên riêng rẽ mà là sự hòa nhập trong tổng thể.
Bên cạnh đó, ngay từ những năm 1980, phong trào NKT Việt Nam đã có sự hiện diện trong các hoạt động quốc tế, ủng hộ, tham gia vào diễn đàn, phong trào khu vực và toàn cầu. Điều đó cho thấy, Việt Nam không chỉ chăm lo chính sách trong nước, mà còn chủ động hòa nhập với xu thế tiến bộ của nhân loại.
Năm 2007, Việt Nam ký tham gia Công ước Liên Hợp Quốc về quyền của người khuyết tật (CRPD) và đến năm 2014 chính thức phê chuẩn mà không bảo lưu bất kỳ điều khoản nào cho thấy sự cam kết mạnh mẽ cũng như sự chuẩn bị chu đáo để thực hiện các cam kết một cách hiệu quả.
Cùng với đó, Việt Nam cũng đã tích cực thực hiện Các Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDGs), và hiện nay là Mục tiêu Phát triển bền vững (SDGs). Trong đó, nhiều mục tiêu trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến NKT và các nhóm yếu thế, như xóa đói giảm nghèo, phổ cập giáo dục, bình đẳng giới, y tế, giảm bất bình đẳng và xây dựng xã hội hòa nhập….
Đặc biệt, ở cấp độ khu vực, Việt Nam tham gia Chiến lược Incheon về “Thúc đẩy thập kỷ người khuyết tật châu Á – Thái Bình Dương” (2013–2022). Đây là một sáng kiến quốc tế có tính định hướng, đặt ra các mục tiêu cụ thể nhằm nâng cao vị thế và bảo đảm quyền của NKT trong toàn khu vực. Việc thực hiện Chiến lược Incheon không chỉ giúp Việt Nam hoàn thiện chính sách trong nước, mà còn đưa vấn đề NKT vào bối cảnh phát triển khu vực và toàn cầu.
Thực tiễn cho thấy, cuộc sống của người khuyết tật ở Việt Nam đã có những bước thay đổi đáng kể, sau tốt hơn trước. Tỷ lệ trẻ khuyết tật đến trường tăng lên; các mô hình giáo dục hòa nhập được triển khai rộng rãi; nhiều trung tâm dạy nghề, cơ sở tạo việc làm cho NKT được hình thành. Các chương trình hỗ trợ tiếp cận thông tin, công nghệ, dịch vụ y tế, văn hóa, thể thao đã giúp NKT phát triển toàn diện hơn. Nhiều vận động viên NKT đã giành thành tích quốc tế, góp phần khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường thể thao thế giới….
Tuy nhiên, khó khăn vẫn còn không ít. Rào cản môi trường, hạ tầng chưa thật sự đồng bộ; một số chính sách còn chậm đi vào thực tiễn; định kiến xã hội đôi khi vẫn là “hàng rào vô hình” khiến NKT gặp nhiều trở ngại. Những vấn đề này đòi hỏi sự kiên trì, nỗ lực hơn nữa từ phía Nhà nước, cộng đồng và bản thân NKT để tiến tới một xã hội thực sự bao trùm…
Nhìn lại 80 năm hành trình độc lập – tự do – hạnh phúc, có thể thấy rằng: sự quan tâm đến người khuyết tật và các nhóm yếu thế luôn gắn liền với mục tiêu phát triển chung của đất nước. Đó không chỉ là trách nhiệm pháp lý, mà còn là biểu hiện của bản sắc nhân văn trong chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng.
Khi người khuyết tật được đảm bảo đầy đủ các quyền như học tập, lao động, chăm sóc sức khỏe… cùng khi phụ nữ, trẻ em, người nghèo, người cao tuổi, đồng bào dân tộc thiểu số và các nhóm đối tượng trong xã hội đều được bảo vệ và trao cơ hội, thì chính lúc đó lý tưởng “không để ai bị bỏ lại phía sau” mới thực sự trở thành hiện thực.
Từ Hiến pháp đến pháp luật, từ Pháp lệnh Người Tàn tật năm 1998 đến Luật Người khuyết tật 2010; từ Chỉ thị 51 năm 1989 đến Chỉ thị 39 năm 2019, từ tham gia, ủng hộ các phong trào quốc tế những năm 1980 đến Chiến lược Incheon và Công ước CRPD, hành trình ấy chứng minh một điều: Việt Nam kiên định trên con đường phát triển vì con người, trong đó độc lập đi đôi với tự do, phát triển gắn với công bằng, và hạnh phúc phải thuộc về tất cả mọi người.
Và một minh chứng rõ nét cho sự hòa nhập sâu rộng và bình đẳng của người khuyết tật chính là sự hiện diện của họ trong các hoạt động chào mừng kỷ niệm 80 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (A80). Tại các triển lãm trưng bày, gian hàng của Hội Thanh niên khuyết tật Việt Nam cùng nhiều sản phẩm sáng tạo do người khuyết tật thực hiện đã xuất hiện trang trọng, để lại ấn tượng mạnh mẽ đối với đông đảo khách tham quan.

Ngài Kohdayar Marri- Đại sứ Pakistan tại Việt Nam, thăm gian trưng bày của doanh nghiệp xã hội SafeViet (Ảnh: Quốc Nam)
Trao đổi với phóng viên, anh Trần Quốc Nam- Giám đốc Doanh nghiệp xã hội SafeViet đồng thời cũng là một người khuyết tật, anh Nam chia sẻ: “Những sản phẩm được trưng bày ở đây là kết tinh của niềm đam mê và sự sáng tạo của người khuyết tật. Chúng tôi muốn chứng minh rằng, nếu có cơ hội, người khuyết tật hoàn toàn có thể làm việc, sáng tạo và cống hiến như bất kỳ ai. Thông qua các sản phâm được triển lãm, chúng tôi muốn nói rằng: “Chúng tôi có thể khuyết, nhưng sản phẩm thì không”!Việc được góp mặt tại sự kiện trọng đại của dân tộc chính là lời khẳng định mạnh mẽ rằng chúng tôi là một phần không thể thiếu trong hành trình phát triển đất nước.”
Còn theo anh Phạm Quang Khoát, Phó Chủ tịch Hội Thanh niên khuyết tật Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội Người khuyết tật Hà Nội cho biết thêm: “Thanh niên khuyết tật hôm nay không chỉ vượt lên chính mình, mà còn mang lại giá trị thiết thực cho cộng đồng bằng sức trẻ, trí tuệ và sự sáng tạo. Chúng tôi sẽ tiếp tục dấn thân, đóng góp và cống hiến, cùng chung khát vọng xây dựng một Việt Nam ngày càng phát triển, văn minh và nhân ái.”
Đó cũng chính là một phần ý nghĩa sâu xa của con đường mà dân tộc ta đã chọn: độc lập cho đất nước, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho tất cả mọi người với sự khẳng định nhất quán không để ai bị bỏ lại phía sau….
Đỗ Văn
